From: lien thanh <
Sent: Saturday, March 12, 2016 1:35 PM
Subject: NƯỚC MỸ NÓI
Sent: Saturday, March 12, 2016 1:35 PM
Subject: NƯỚC MỸ NÓI
XIN PHỔ BIẾN RỘNG RÃI
CHÍNH PHỦ MỸ THANH TOÁN TÊN CÁN BỘ CỌNG SẢN
THÍCH TRÍ QUANG VÀ CÁI TỔ CHỨC THỔ TẢ PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT CỦA THÍCH
TRÍ QUANG RA KHỎI CHÍNH TRƯỜNG NAM VIỆT NAM.
NƯỚC MỸ NÓI:
“KHÔNG
MỘT AI LÀ BẠN VĨNH VIỄN,CHẲNG MỘT AI LÀ THÙ VĨNH VIỄN,CHỈ CÓ QUYỀN LỢI CỦA NƯỚC
MỸ MỚI LÀ VĨNH VIỄN”
CHÍNH PHỦ MỸ THANH TOÁN TÊN CÁN BỘ CỌNG SẢN THÍCH TRÍ QUANG VÀ CÁI TỔ
CHỨC THỔ TẢ PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT CỦA THÍCH TRÍ QUANG RA KHỎI CHÍNH TRƯỜNG
NAM VIỆT NAM.
_______
Orange
County, CA.USA. Ngày 12/3/2016
LiênThành
(Trích
Biến Dộng Miền Trung của tác giả Liền Thành,
trang 55-65)
Trí
Quang và cộng sản đã ước tính sai khi tung ra cuộc dấy loạn Miền Trung năm
1966. Vào năm 1963, Mỹ dùng một số tướng lãnh cùng Trí Quang và quần chúng Phật
giáo, để lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Bây
giờ là 1966, Trí Quang không còn có giá trị lợi dụng nữa. Đối với các Tướng
Lãnh VNCH đang nắm quyền, thì Trí Quang là một trở ngại, một chướng ngại vật
trên bước đường công danh và sự nghiệp của họ. Chướng ngại vật này phải được dẹp
bỏ.
Còn
đối với người Mỹ và đặc biệt là cơ quan tình báo của họ, phương tiện nào cũng tốt,
miễn là đạt được mục đích, quốc gia hay cộng sản cũng vậy thôi. Họ dư biết Trí
Quang là cộng sản, là đảng viên cộng sản, và trong hàng ngũ của Trí Quang,cái gọi
là tổ chức Thổ Tả Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất của Thích Trí Quang có quá nhiều cán bộ cộng sản nằm vùng. Nhưng
vì nhu cầu, họ vẫn tạo hình tượng Thích Trí Quang cho hào quang bóng nhoáng.
Sau 1963, hình tượng đó không còn cần thiết nữa, mà còn tạo nhiều trở ngại, thì
Trí Quang phải được dẹp bỏ.
Năm
1966, Mỹ đang đổ quân ào ạt vào Việt Nam. Chính phủ Mỹ đang cần một hậu phương
Miền Nam ổn định chính trị. Trí Quang và cộng sản đã quá lầm lẫn, nếu không nói
là... ngu, khi phát động Phong Trào Tranh Đấu Miền Trung trong thời gian này.
Dưới mắt ông Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn bấy giờ, thì Trí Quang là một kẻ gây rối, một
kẻ tham, sân, si, say mê quyền lực và một trở ngại lớn cho Tòa Đại Sứ Mỹ trong
việc ổn định tình hình chính trị tại Sài Gòn. Trí Quang phải được dẹp bỏ lập tức,
mạnh mẽ, không nương tay, không nhân nhượng.
Những
nhận xét của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ về vụ Phản loạn miền trung do Thích Trí Quang
cầm đầu:
Những quan hệ ngoại giao, 1964-1968[1]
Giờ
đây một phần tử mới và nguy hiểm hơn đã nhảy vào cuộc. Những tên tu sĩ chính trị
Phật giáo và những phần tử có thế lực mạnh ở Quân Đoàn I bây giờ đang bắt đầu
gây rối cho chính phủ, dùng việc Nguyễn Chánh Thi bị loại trừ như là cái cớ và
là điểm để khởi động tấn công. Những phần tử này trước đây đã nằm yên một thời
gian. Họ không có tình cảm gì với chính phủ Kỳ nhưng cũng không căm ghét như
lúc ban đầu. Tuy nhiên, chính phủ thì không có lợi cho những mệnh lệnh của họ.
Rõ ràng rằng họ đã thấy tình hình chính trị mới ở Quân Khu I là một cơ hội để
làm áp lực lên chính phủ, hy vọng rằng chính phủ phải thay đổi theo đúng hình
thức mà họ muốn hoặc giả phải thay bởi một chính phủ khác mà họ thích.
Xin
đọc bức Công Điện của Bộ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ Ông Dean Rusk gởi cho Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn thì sẽ thấy
Chính phủ Hoa Kỳ muốn gì, và lời lẽ vừa nhục mạ vừa răn đe Thích Trí Quang cùng
nhóm tăng lữ Cộng sản Việt cộng tức nhóm Ấn Quang thì sẽ thấy bọn chúng nhục
nhã đến mức nào:
Điện Tín của Bộ Ngoại
Giao gởi Tòa Đại Sứ Việt Nam[2]
Washington ngày 16 tháng
3 năm 1966, lúc 4 giờ 13 phút
2763.
Tuyên bố của Thích
Hộ Giác, được báo cáo bởi UPI (United Press International) cam đoan rằng Phật giáo sẽ chiến đấu đến “giọt máu cuối
cùng và hơi thở cuối cùng” để đạt được yêu sách 4 điểm, trong đó việc loại trừ
chính phủ VNCH hiện tại, được nhấn mạnh là yêu sách hàng đầu. Chúng ta,
chính phủ Hoa Kỳ phải tìm cách làm cho Phật giáo hiểu rằng, với việc chính phủ
Hoa Kỳ tham gia sâu vào việc bảo vệ quốc gia của họ chống lại sự thôn tính của
Cộng sản, không có nghĩa là chỉ để ủng hộ chính phủ và quân đội của họ, đây
không phải là thời gian để Phật giáo đập đổ mọi thứ và làm hỏng những nỗ lực mà
đã bắt đầu có hiệu quả. Hơn nữa, Hoa Kỳ cũng như chính phủ Nguyễn Cao Kỳ cam kết
sẽ tập trung thúc đẩy kinh tế và các tiến bộ xã hội mà Phật giáo cũng luôn nói
như vậy. Nhưng những điều này không thể thành tựu qua đêm và chắc chắn sẽ không
bao giờ đạt được nếu như Việt cộng chiếm Miền Nam. Ngoài ra, nếu thay đổi chính
phủ thì những thành tựu của Việt Nam sẽ không được thúc đẩy nhanh hơn mà ngược
lại sẽ chỉ làm cho chậm trễ thêm mà thôi
Phật giáo phải được cho
biết rằng trách nhiệm của chính phủ Hoa Kỳ về việc tiếp tục giúp đỡ người Việt
Nam chống cộng và phát triển quốc gia tùy thuộc rất nhiều vào việc họ phải sẵn
sàng dẹp bỏ sự khác biệt giữa họ với nhau và phải hợp tác với nhau.
Trong quyết định của Đại
Sứ, ông có toàn quyền truyền đạt cho Thích Trí Quang cũng như các tổ chức Phật
giáo khác và các người lãnh đạo các tổ chức này mà ông thấy cần thiết, rằng
quan điểm của Tổng Thống Hoa Kỳ là, nếu
họ tiếp tục việc phá hoại và vô trách nhiệm như hiện nay, thì không
những họ sẽ mất thiện cảm của công luận và chính quyền Hoa Kỳ mà trước đây họ
đã có, mà họ sẽ làm cho tình trạng hỗn loạn và vô chính phủ trầm trọng hơn lên,
trong đó sự hỗ trợ của chính phủ Hoa Kỳ cho Việt Nam sẽ không có hiệu lực nữa. Tổng Thống Hoa Kỳ hy vọng rằng Phật giáo sẽ
thể hiện điều này, rằng không những chỉ có những người yêu nước Việt Nam quan
tâm đến vận mệnh của quốc gia mình mà những người lãnh đạo tôn giáo cũng phải
biết quan tâm đến vận mệnh của các tín đồ của họ và những giáo lý mà họ cho là
họ đại diện.
Rusk
Bộ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ.
BẢN ANH NGỮ
NGUYÊN GỐC CỦA BỘ NGOẠI GIAO HOA KỲ
Người
Mỹ giúp mọi phương tiện cần thiết cho chính phủ Sài Gòn mở cuộc hành quân dẹp
loạn tại Miền Trung.
Ngày
4-4-1966, bằng phương tiện không vận của Hoa Kỳ, lực lượng quân sự VNCH đổ quân
xuống Đà Nẵng.
Tư
lệnh Sư Đoàn I BB là Tướng Nguyễn Văn Chuân, Tư lệnh Quân Đoàn I, Quân Khu I là
Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi. Tướng Chuân được cử thay thế Trung Tướng Thi,
Trung Tướng Thi bay ra Huế. Như đã biết, Trung Tướng Thi là người của Trí
Quang.
Những
ngày kế tiếp, Trung Tướng Nguyễn Hữu Có ra Đà Nẵng gặp Tướng Nguyễn Văn Chuân,
sau đó Tướng Chuân theo Trung Tướng Có vào Sài Gòn.
Sài
Gòn cử Trung Tướng Tôn Thất Đính ra Đà Nẵng thay thế Trung Tướng Thi, mọi chuyện
không ổn, Trung Tướng Đính phải chạy vào BCH của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ xin tỵ
nạn.
Chính
Phủ lại cử Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao ra thay Trung Tướng Đính. Thiếu Tướng Huỳnh
Văn Cao là tín đồ Công Giáo. Khi từ Đà Nẵng đến Huế cùng với viên Đại Tá Cố Vấn
phó Quân Đoàn là Arch Hamblen, Thiếu Tướng Cao đã bị các Lực Lượng Tranh Đấu do
đám Sinh Viên Học Sinh Quyết Tử cầm đầu biểu tình phản đối.
Đoàn biểu tình hàng
ngàn người bao vây, Tướng Cao và đoàn cận vệ khó khăn lắm mới chạy thoát vào
sân bay Tây Lộc, Thành Nội. Tại đây một phi cơ trực thăng của quân đội Hoa Kỳ đợi
sẵn để đưa ông vào Đà Nẵng. Đoàn biểu tình rượt theo Tướng Cao và Đại Tá Arch
Hamblen vào tận sân cờ BTL/SĐ. I. Trực thăng chở Tướng Cao và Đại Tá Arch
Hamblem vừa rời khỏi mặt đất vài chục mét thì trong đoàn biểu tình, viên sĩ
quan của Sư Đoàn I BB, Trung Úy Nguyễn Đại Thức rút súng lục bắn Tướng Cao, may
mắn ông không bị trúng đạn. Lập tức xạ thủ đại liên của trực thăng, viên hạ sĩ
quan người Mỹ, nổ súng đại liên bắn trả. Nguyễn Đại Thức chết gục tại ngay sân
cờ BTL, dưới sự chứng kiến của Thiếu Tá Nguyễn Văn Tố, Phó Tỉnh trưởng Nội An
Thừa Thiên – Huế. Những ngày sau, khi Thích Trí Quang thành lập Chiến Đoàn Quân
Nhân Phật Tử của Sư Đoàn I BB, cho lấy tên viên sĩ quan này đặt cho chiến đoàn,
gọi là Chiến Đoàn Quân Nhân Phật Tử Nguyễn Đại Thức.
Cũng
giống Trung Tướng Tôn Thất Đính, Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao vào Đà Nẵng, nơi đặt
BCH Quân Đoàn I. Thiếu Tướng Cao liên lạc với Tướng Tư lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục
Chiến Mỹ và tỵ nạn tại đó.
Bây
giờ thì miền Trung và Thừa Thiên-Huế hoàn toàn vô chính phủ, mặc sức Thích Trí
Quang và đám cộng sản Hoàng Kim Loan tung hoành. Dân chúng sống từng giờ trong
nơm nớp lo sợ: sợ Thầy, sợ Việt cộng, sợ các đoàn Học Sinh, Sinh Viên Quyết Tử
của Thầy. Công chức, quân nhân sợ không được lãnh lương, vợ con đói.
Vị
Tướng kế tiếp được Chính Phủ cử ra làm Tư lệnh Quân Đoàn I là Thiếu Tướng Trần
Thanh Phong. Thiếu Tướng Phong đến Đà Nẵng đúng vào thời gian cao điểm của
phong trào Tranh Đấu Phật Giáo Miền Trung. Ông chuẩn bị cho cuộc đổ quân ra Huế
dẹp loạn. Trong khi đó thì tại Huế lực lượng chống lại phong trào tranh đấu được
phân loại như sau:
1-
Thành phần chống đối tiêu cực:
Khối
Công giáo: Đại đa số tín đồ Thiên Chúa Giáo sống tại làng Phú Cam, nơi có nhà
thờ Chính Tòa Phú Cam, vùng Dòng Chúa Cứu Thế, nơi có nhà thờ và dòng tu, Dòng
Chúa Cứu Thế, vùng Gia Hội có nhà thờ Gia Hội, vùng Kim Long nơi có dòng tu kín
của các nữ tu. Họ chống lại Phong trào Tranh Đấu nhưng tiêu cực. Các vị lãnh đạo
không muốn giáo dân vướng vào vòng xung đột của hai tôn giáo là Phật giáo và
Thiên Chúa giáo. Khu an toàn Phú Cam được giáo dân canh gác, đề phòng cẩn mật
vì sợ các đoàn Quyết Tử của Phong Trào Tranh Đấu quấy phá. Họ sẵn sàng chống trả
chỉ trong trường hợp tự vệ. Đại đa số trầm lặng là giáo chức, thành phần trí thức,
những người lớn tuổi, và Hoàng Tộc đều bất bình và chống lại cuộc Tranh Đấu Miền
Trung nhưng họ chỉ giữ thái độ im lặng và không hợp tác.
2-
Thành phần chống đối tích cực:
Các
đảng phái chính trị quốc gia như:
-
Việt Nam Quốc Dân Đảng.
-
Đại Việt Cách Mạng của ông Hà Thúc Ký.
Lực
lượng nòng cốt của Đại Việt Cách Mạng tại Thừa Thiên-Huế là Tỉnh Đoàn Xây Dựng
Nông Thôn, do Thiếu Tá Nguyễn Văn Lý làm Tỉnh Đoàn Trưởng. Ông là một lãnh tụ
quan trọng và cao cấp của Đảng Đại Việt. Một nhân vật chống cộng sản tuyệt đối,
nếu không muốn nói là quá khích.
Tỉnh
đoàn Xây Dựng Nông Thôn đã góp công lớn trong việc dẹp loạn Miền Trung. Họ tung
nhân viên tham gia vào Lực Lượng Tranh Đấu thu thập tin tức, thiết lập hồ sơ những
thành phần quá khích cung cấp cho đơn vị hành quân dẹp loạn.
Cũng
không thể không nói đến một góp sức không nhỏ cho việc dẹp loạn Miền Trung là
Cơ Quan Dân Ý Vụ. Đây là một cơ quan được thành lập vào năm 1965, phụ trách về
Tình Báo Nhân Dân, lãnh lương từ ngân sách viện trợ. Chỉ Huy Trưởng cơ quan này là ông Trần Đông Hoài, một giáo sư dạy
Pháp Văn tại trường Trung Học Thiên Hựu, nói ngoại ngữ Anh và Pháp giống như
người ngoại quốc. Mặc dầu là một nhà giáo, nhưng lại có thiên phú đặc biệt tình
báo. Cơ Quan Dân Ý Vụ cung cấp hầu hết các kế hoạch hành động của lực lượng
tranh đấu.
Ngoài
ra, lực lượng quân sự chống lại cuộc nổi loạn miền Trung chỉ có 3 đơn vị nhỏ đó
là:
1/ Phía Bắc Thừa Thiên:
Quận
Quảng Điền, do Đại Úy Nguyễn Quang Anh làm Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng. Ông
là thành viên cao cấp của Quốc Dân Đảng. Đại Úy Anh dự định lập khu biệt lập Quảng
Điền, dùng lực lượng quân sự của Chi Khu chống lại đám dấy loạn Miền Trung.
Công việc bại lộ, Đại Úy Anh phải đào tẩu vào Đà Nẵng trình diện Thiếu Tướng Tư
lệnh Quân Đoàn I, Trần Thanh Phong. Khi lực lượng hành quân của chính phủ đổ
quân ra Huế dẹp loạn, ông theo lực lượng hành quân ra Huế trở lại nhiệm sở cũ,
chức vụ cũ. Sau đó, trong một cuộc đụng trận lớn với lực lượng cộng sản tại quận
lỵ Quảng Điền vào năm 1967, Đại Úy Anh đã anh dũng đền nợ nước.
2/ Phía Nam Thừa Thiên:
Quận
lỵ Hương Thủy nằm về phía Nam Thành phố Huế. Bộ Chỉ Huy Quận và Chi Khu Hương
Thủy nằm cạnh phi trường Phú Bài và căn cứ của Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến Hoa
Kỳ, Phú Bài, cạnh Quốc lộ I trên đường vào Đà Nẵng.
Quận
Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng là Thiếu Tá Nguyễn Văn Tăng. Thiếu Tá Quận Trưởng
Hương Thủy là một trong những đơn vị trưởng quân sự đầu tiên chống lại Phong
Trào Tranh Đấu Miền Trung. Trong những ngày đầu của cuộc tranh đấu, ông cho lực
lượng quân sự Chi Khu bố trí và án ngữ ngay vùng Dạ Lê trên Quốc lộ I. Đồng thời
ông cũng yêu cầu đơn vị TQLC Mỹ tại Phú Bài tăng phái 2 xe tăng M 48, chận ngay
quốc lộ I vùng Dạ Lê, ngăn chặn không cho lực lượng tranh đấu từ Thành phố Huế
tràn xuống. Văn phòng Quận, Chi Khu Hương Thủy bấy giờ trở thành BCH của lực lượng
chống phong trào Tranh Đấu.
Trung
Tá Phan Văn Khoa, Tỉnh Trưởng Tỉnh Thừa Thiên, Thị Trưởng Thị Xã Huế, kiêm Tiểu
Khu Trưởng là vị Tỉnh Trưởng đầu tiên tại miền Trung chống lại phong trào tranh
đấu. Nguyễn Đắc Xuân đã kéo đoàn Sinh viên Quyết tử đến bao vây và định đốt nhà
Trung Tá Tỉnh Trưởng. Sau đó Trung Tá Khoa dời văn phòng Tỉnh Trưởng về quận
Hương Thủy, vì Thành phố Huế rối loạn, mất an ninh, chính quyền không còn kiểm
soát được nữa.
BCH
lực lượng chống tranh đấu hằng ngày tấp nập các phái đoàn của Chính Phủ Trung
Ương Sài Gòn bay ra hội họp. Lãnh tụ các đảng phái chính trị và nhiều phái đoàn
quân sự cũng như tình báo Mỹ, họp với Trung Tá Tỉnh Trưởng, bàn soạn kế hoạch
tái chiếm lại Thành phố Huế hiện đang nằm
trong tay đám tranh đấu.
Tại
Thành phố Huế, độc nhất còn lại BCH Tiểu Khu Thừa Thiên chưa bị đám phản loạn
chiếm cứ. BCH Tiểu Khu Thừa Thiên đóng gần Đài Phát Thanh Huế. Trung Tá Khoa
giao cho Thiếu Tá Nguyễn Văn Tố, Phó Thị Trưởng Nội An, trấn giữ. Đám tranh đấu
chưa dám chiếm Tiểu Khu vì đây là cơ quan quân sự.
Huế
hoàn toàn bỏ trống, không còn chính quyền, thành phố nằm gọn trong tay đám
tranh đấu Thích Trí Quang.
3/ Phía Tây Thành phố Huế:
Lực
lượng thứ 3 chống lại đám tranh đấu là Quận Nam Hòa, nằm về phía Tây Thành phố
Huế. Quận Nam Hòa là một quận miền núi, mặc dầu chỉ cách Thành phố Huế khoảng
12Km.
Quận
Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng là Thiếu Tá Phạm Khắc Đạt. Phụ Tá Quận Trưởng kiêm
Chi Khu Phó là tôi, Thiếu Úy Liên Thành.
Thiếu
Tá Phạm Khắc Đạt là vị chỉ huy đầu đời trong đời binh nghiệp của tôi. Ông là một
sĩ quan trẻ cấp Thiếu Tá, nhưng ông có đủ khả năng quân sự vừa chiến thuật và
chiến lược. Là người Bắc, ông rất tế nhị, cẩn trọng trong mọi vấn đề, mọi trường
hợp. Trong những ngày đầu của cuộc dấy loạn Miền Trung, ông không chống mà cũng
chẳng ngả về phong trào tranh đấu. Chỉ đứng khoanh tay nhìn thời cuộc.
Lực
lượng quân sự của Chi Khu Nam Hòa gồm có:
- 200 Dân Vệ (sau gọi là Nghĩa Quân).
- 2 Đại Đội tăng phái từ Tiểu Khu.
- 1 Pháo Đội 105 ly tăng phái từ Sư Đoàn I BB.
Tôi
vừa là Chi Khu Phó vừa là Liên Đại Đội Trưởng.
Trong
thời gian thành phố biểu tình lên đường, xuống đường thì tình hình địch tại Nam
Hòa mỗi ngày mỗi nặng. Hai đại đội chạm địch liên miên, ngày nào cũng có binh
sĩ bị thương hoặc tử thương.
Tôi
còn nhớ vào một đêm trong tháng 3-1966, Đại Đội do tôi chỉ huy đụng nặng với
đơn vị Việt cộng. Tôi gọi máy xin pháo đội 105 ly pháo binh Quận yểm trợ. Tọa độ
xin tác xạ là 76... bản đồ tỷ lệ 1/100,000, ba tràng đạn nổ chạm. Chỉ 5 phút
sau pháo đội báo: Đạn đi, đợi hoài chẳng thấy đạn nổ mà chỉ nghe ba tràng đạn nổ
từ xa vọng lại, rất xa tọa độ tôi xin.
Sáng
hôm sau, tôi kéo Đại Đội vượt nguồn hữu ngạn sông Hương trở về Quận, vừa đến chợ
Tuần thì đại họa đến. Đại Đội tôi đụng đầu với một đoàn biểu tình của nhóm
Tranh Đấu từ Thành phố Huế kéo lên, toàn là Sinh Viên, Học Sinh đang đứng gần
chợ Tuần. Họ la lớn, “đả đảo Cần Lao đàn áp Phật giáo, bắn sập Chùa, giết hại
Tăng Ni”. Đoàn biểu tình kéo lại định vây đơn vị tôi vào giữa. Lính vừa đói vừa
mệt lả, tôi cũng vậy. Tôi phản ứng rất nhanh nhưng mà dại. Tôi quay qua viên
Thượng Sĩ Đại Đội ra lệnh rất nhanh: “Đội Hình”. Binh sĩ túa ra bố trí.
Đoàn biểu
tình thấy lính phản ứng nên lùi lại, cũng may trong đám biểu tình có tiếng la lớn:
-
Khoan đã, đừng làm bậy, hắn là Liên Thành con thầy Trợ Cử (phụ thân tôi là một
nhà giáo), cháu của Ngài Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết không phải Cần Lao đâu. --
Tiếng la đó phát xuất từ thằng bạn học cũ của tôi ở Trường Quốc Học và cũng ở
cùng xóm Chùa Từ Đàm với tôi. Anh ta là Trần Văn Rô, Sinh Viên Đại Học Khoa Học.
Tôi chưng hửng hỏi Trần Văn Rô:
- Chuyện
gì vậy? -- Rô trả lời:
- Tối hôm qua mày bắn sập chùa Sư Nữ ở Cầu Lim,
gần Đàn Nam Giao phải không? -- Tôi trả
lời Rô:
-
Có, tao có gọi pháo binh bắn yểm trợ, vì tụi tao đụng nặng với Việt cộng, nhưng
tụi tao đánh nhau bên kia sông, trong núi đâu phải bên này. Chuyện này tao vô
can. -- Đoàn biểu tình kéo về Huế.
Trên
đường về Quận, tôi nghĩ mình ngu quá, ra lệnh cho binh sĩ dàn đội hình tác chiến,
lỡ có người lính nào mất bình tĩnh bắn đại vào đám sinh viên biểu tình thì
không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra. Khi về đến Quận đã thấy có phái đoàn điều tra của
Tỉnh Giáo Hội Phật Giáo và Ty Cảnh Sát hiện diện tại đó. Sự việc sáng tỏ. Tôi gọi
bắn yểm trợ ở tọa độ 76... (trục hoành độ), nhưng vì cả pháo đội đang có sòng
xì phé đến hồi gay cấn, lúc tôi gọi xin tác xạ, viên thượng sĩ già mắc dịch làm
xạ bản tác xạ đang thua bạc, hấp tấp viết số 76 thành 70 có tí râu, nên trục
hoành độ đã dời qua phía đông 6 cây số. Đạn rơi trúng phóc vào chùa Sư Nữ ở Cầu
Lim. Cũng may chỉ sập 1 góc chùa, các vị sư
nữ đêm đó kéo nhau ra giếng ngoài ruộng tắm giặt, nên chẳng ai bị thương
tích gì, thật hú hồn.
Những
ngày kế tiếp, lính tại đơn vị mỗi ngày mỗi thưa dần, đa số đã bỏ súng tại đơn vị,
trốn về Huế gia nhập chiến đoàn Nguyễn Đại Thức “bảo vệ Thầy, bảo vệ đạo pháp
đang lâm nguy”. Số binh sĩ hiện diện còn tại đơn vị đa số là người Công Giáo và
lính già. Cùng thời gian tôi nhận được công điện hỏa tốc của BCH Tiểu Khu Thừa
Thiên: Yêu cầu đơn vị hạn chế tối đa đạn dược và điện trì cho máy truyền tin,
vì không còn nhận được tiếp tế từ Quân Đoàn.
Thời
gian đó tại mỗi Quận, Chi Khu đều có Văn Phòng Cố Vấn Mỹ. Viên cố vấn cho Chi
Khu Nam Hòa tên Bob, cấp bậc Thiếu Tá. Tôi phải vận dụng tối đa công lực, vừa
miệng, vừa tay xổ tiếng Mỹ với viên Thiếu Tá, cho ông ta biết tình trạng hiện tại
và nói tôi muốn trốn vào Đà Nẵng trình diện Quân Đoàn. Ông ta hỏi tôi:
-
Anh không theo tranh đấu? -- Tôi cười trả lời:
-
Như vậy có khác gì theo Việt cộng.
Viên
Thiếu Tá Mỹ nói:
-
Hỏi vậy thôi chứ tôi biết rõ Thiếu Úy. Tôi sẽ giúp Thiếu Úy, tuy nhiên Thiếu Úy
cũng nên bàn với Thiếu Tá Quận Trưởng. -- Tôi nói:
-
Tôi sẽ bàn với ông ta.
Trong
khi đang đứng nói chuyện với tôi bỗng nhiên anh ta giật mình nói nhỏ với tôi:
-
Thiếu Úy, nhìn kìa!
Tôi
nhìn theo hướng tay ông ta chỉ về phía pháo đội 105 ly thì thấy cả hai khẩu
pháo 105 ly đã quay hướng súng về phía căn cứ Phú Bài từ hồi nào. Trong lúc đó
tôi vẫn còn 1 đại đội đang hoạt động trong vùng trách nhiệm phía vùng núi bên
kia sông, vùng núi Kim Phụng, pháo đội phải quay súng về hướng đó để sẵn sàng
tác xạ yểm trợ theo yêu cầu, tại sao lại quay hướng súng về Phú Bài. Tôi đang
suy nghĩ thì viên Thiếu Tá Mỹ nói ngay:
-
Tôi nghĩ Pháo đội này đã theo lực lượng
tranh đấu. Họ quay hướng súng về phía Phú Bài để tác xạ vào Sư Đoàn TQLC Mỹ của
chúng tôi. Tôi sẽ báo ngay cho Bộ Chỉ Huy MAC-V. -- Nói xong ông ta đi vào văn
phòng. Khoảng 30 phút sau đó Thiếu Tá Bob trở ra mời tôi vào văn phòng của ông
ta và nói ngay:
-
Thiếu Úy, mình phải chiếm hai khẩu súng này ngay lập tức.
Bây
giờ thì không thể xài tiếng Mỹ bằng miệng và bằng tay được nữa, mà phải xài tiếng
Mỹ qua thông dịch viên. Tôi hỏi viên Thiếu Tá:
-
Thông dịch viên anh đâu, tôi cần hắn dịch rõ ràng vì chuyện quan trọng. -- Viên
Thiếu Tá Mỹ nói: Có ngay. -- Và ông ta gọi viên Trung Sĩ Mỹ vào làm thông dịch.
Tôi vô cùng ngạc nhiên, vì bao lâu nay tôi chưa từng nghe người Trung Sĩ Mỹ này
nói một chữ tiếng Việt.
Với
giọng Bắc rất rõ ràng, viên Trung Sĩ Mỹ nói:
-
Thiếu Tá chúng tôi cần Thiếu Úy ra lệnh cho Pháo Đội quay hướng súng lên núi. Nếu
Pháo đội không chịu thì phải dùng vũ lực chiếm 2 khẩu súng này, vì họ muốn tác
xạ vào đơn vị TQLC của chúng tôi. -- Viên Trung Sĩ nói tiếp:
-
Trong vòng 1 giờ nữa sẽ có một Trung Đội TQLC của chúng tôi đến đây giúp Thiếu
Úy. -- Qua thông dịch viên tôi nói với Thiếu Tá Bob:
-
OK, nhưng để tôi cho mời Trung Úy Pháo đội trưởng lên đây. Mình nói chuyện với
ông ta trước để rõ sự việc như thế nào. Tôi không muốn phe mình bắn phe ta. --
Chỉ trong vòng 10 phút sau Trung Úy Pháo đội Trưởng đã có mặt. Tôi nói ngay:
-
Ông hơn cấp bậc tôi, nhưng ông tăng phái cho tôi, lẽ dĩ nhiên phải dưới quyền
chỉ huy và điều động của tôi. Xin Trung Úy cho biết ai cho quay hướng súng về
Phú Bài, trong khi đó tôi đang còn một đơn vị đang hành quân bên kia sông, hướng
núi Kim Phụng?
Pháo
đội trưởng chậm rãi trả lời:
-
Tôi nhận lệnh của Sư Đoàn, quay súng về phía đó và đợi lệnh. -- Tôi hỏi viên
Pháo Đội Trưởng:
-
Nếu có lệnh của Sư Đoàn Trung Úy có bắn không?
-
Không.
-
Tại sao?
-
Tôi không theo đám tranh đấu.
Tôi
nói tiếp với Trung Úy Pháo Đội Trưởng:
-
Tôi tin Trung Úy. Bây giờ xin cho quay hướng súng trở lại. Nếu có ai báo cáo với
Sư Đoàn, Trung Úy cứ nói theo yêu cầu của Chi Khu, vì họ cần tác xạ vào một số
tọa độ khuấy rối trong đêm.
-
Ông yên tâm, tôi cho quay hướng súng lại ngay. Hai phần ba binh sĩ của pháo đội
tôi đã trốn theo tranh đấu. Số còn lại là đệ tử thân tín của tôi.
Trong
khi tôi nói chuyện với Trung Úy Pháo Đội Trưởng thì viên Hạ sĩ quan Mỹ đã dịch
hết cho Thiếu Tá Bob nghe rồi. Tôi xoay qua viên Thiếu Tá Mỹ hỏi ông cần nói gì
với Trung Úy không? Ông ta bắt tay Trung Úy Pháo đội trưởng nói:
-
Tôi tin ông, nhưng kể từ giờ phút này Chi Khu không cần Pháo Binh của ông yểm
trợ nữa. Pháo Binh của Sư Đoàn TQLC Hoa Kỳ tại Phú Bài sẽ đảm trách. Chốc nữa,
sẽ có 1 trung đội TQLC Hoa Kỳ xuống đây. Nếu có lộn xộn tôi sẽ cho lệnh trung đội
này phá hủy ngay 2 khẩu 105 ly của Trung Úy.
Trung
Úy pháo đội trưởng:
-
OK, Thiếu Tá. -- Mọi người cùng cười, tan hàng.
(CÒN TIẾP…)
[1] Foreign Relations, 1964-1968, Volume IV. http://history.state.gov.
[2] Dean Rusk,
16.3.1966. Telegram
from the Department of State to Embassy in Vietnam.
Http://history.state.gov/historicaldocuments/frus1964-68v04/d96
Liên
Thành.
Trung Tâm Trưởng
Trung Tâm Điều Hành
UBTTTAĐCSVN
__._,_.___
No comments:
Post a Comment