xx

https://lh4.googleusercontent.com/jwHXKk9yK83mb2U0iyp-OSXs7OZgoEcJKB4V-xqOO7STOu0djuO_hHd_dM8GkXjIamwCDoDrZRAdRPT5gaYIUOXwHgEk7mRpK7R7aGCo-eeVOtK72Nk

Địa chủ ác ghê. Tranh Babui.
Địa chủ ác ghê. Tranh Babui.

Wednesday 11 May 2016

wd: Thông Báo 12 – Trịnh Hội – Lương mỗi tháng $100USD, nhà ba căn $2.500.000USD ?....Vấn đề là tiền ở đâu ra?




Sent from my iPad

Begin forwarded message:
From: michel vo <
Date: May 10, 2016 at 11:30:14 AM CDT
To: undisclosed-recipients:;
Subject: Fwd: Fw: Fwd: Thông Báo 12 – Trịnh Hội – Lương mỗi tháng $100USD, nhà ba căn $2.500.000USD

Lương mỗi tháng $100USD, ba căn nhà trị giá $2.500.000USD

Posted on May 6, 2016 by nguyentut
Phần III
Ngày 6 tháng 5, 2016


Thưa quý vị quan tâm,
Trong bài viết này, tôi trưng những chứng cớ cũng như luận điểm cho thấy “hoạt động nhân đạo” là nguồn thu nhập  bí quyết làm giàu của Tổ Chức VOICE và ông Trịnh Hội.  

Điều này trái với sự khẳng định của ông Trịnh Hội khi tự viết về mình trong bài trần tình đề ngày 25 tháng 4, đăng trên báo Người Việt dưới tựa đề “Việt Tân, VOICE và Tôi”: “…trong suốt 10 năm dài từ năm 1997-2007, tôi và các thiện nguyện viên khác mỗi người chỉ được phát cho $100/tháng từ quỹ của văn phòng do chính tay tôi và các bạn bè thân hữu quyên góp.”

Một vài lời với Ông Trịnh Hội, từ một số góp ý trên Facebook:
“Nếu Ông Trịnh Hội nghĩ rằng mình đang dấn thân cho đồng bào tổ quốc, thì hãy dám để công luận xăm soi mình trong ánh sáng sự thật, đó là điều căn bản trước hết. 

Nếu Ông đã sai lầm, hãy dũng cảm nhìn nhận. Ông không dám nhận cái sai của Ông thì còn tư cách nào để lên tiếng đấu tranh trước cái sai của người khác?”

“Nhiều người từng ủng hộ Ông Trịnh Hội, nay cần sự thật.  
Dân ta cần sự thật.  

Sự thật mới giải phóng chúng ta cho dù sự thật ấy có đau lòng đến mấy đi nữa!

Trong mấy ngày qua, tôi đã nhận được ồ ạt thông tin và ý kiến của quý vị trong cộng đồng ở Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Úc, Na Uy, Anh, Phi Luật Tân, Thái Lan… Số thông tin này cho thấy Trịnh Hội và VOICE đã có những điều gian dối nhiều hơn tôi nghĩ.

Trong nhiều chục năm qua, nhiều người khi nghĩ đến Trịnh Hội thì liên tưởng đến hình ảnh của một người trẻ sống nghèo và đạm bạc để hy sinh cuộc đời cho người tị nạn. Hình ảnh cao thượng ấy do chính Trịnh Hội và một số người đồng loã giàn dựng lên. Hãy nghe Trịnh Hội tự viết về mình trong bài trần tình đề ngày 25 tháng 4, đăng trên báo Người Việt dưới tựa đề “Việt Tân, VOICE và Tôi”: “…trong suốt 10 năm dài từ năm 1997-2007, tôi và các thiện nguyện viên khác mỗi người chỉ được phát cho $100/tháng từ quỹ của văn phòng do chính tay tôi và các bạn bè thân hữu quyên góp.” Xem:
100

Chỉ trong có nửa câu mà Trịnh Hội đã có 2 điều gian dối. Trước hết, Trịnh Hội đã được BPSOS, LAVAS và COVRSOA trợ cấp từ ngày đến Phi Luật Tân năm 1997 cho đến ngày Trịnh Hội trở lại Úc, năm 1999. Các tổ chức BPSOS, LAVAS và COVRSOA đã tài trợ mọi chi phí ăn ở, đi lại, máy bay… và phụ cấp thêm 100 USD một tháng choTrịnh Hội.

Còn kể từ năm 2001, khi Trịnh Hội quay lại Phi Luật Tân theo kế hoạch của đảng viên Việt Tân BS. Nguyễn Đỗ Thanh Phong, lúc ấy là Phó Chủ Tịch Ngoại Vụ, và Ông Đoàn Việt Trung, lúc ấy là Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu, thì có lẽ Trịnh Hội được tài trợ bởi tổ chức này hay bởi Việt Tân. Có ai có thông tin thì xin mách bảo dùm.

Điều gian dối thứ hai là, có thực sự Trịnh Hội chỉ có thu nhập 100 USD một tháng? Những thông tin mà tôi nhận được trong mấy ngày qua cho thấy là Trịnh Hội từ năm 2005 đến 2007, nghĩa là trong khoảng thời gian mà Trịnh Hội “được phát cho $13 houses00/tháng”, đã tậu 3 căn nhà trị giá tổng cộng lên đến 2.5 triệu USD. Các căn nhà này có vẻ không phải là nơi cư ngụ mà là để đầu tư và cho thuê – còn Trịnh Hội thì mướn Apartment khi chỗ này khi chỗ kia để ở. Bên đây là địa chỉ của 3 căn nhà mà Trịnh Hội tậu trong 3 năm 2005-2007.

001


Căn nhà thứ nhất:Địa chỉ: 7598 Freestone Ct, Rancho Cucamonga, CA 91739

TH7598 Freestone Ct


Căn nhà này Trịnh Hội đứng tên sở hữu từ tháng 4 năm 2005. Vào tháng 7 năm 2008, căn nhà này được định giá là 568,000 USD, theo hồ sơ thuế dưới đây. Theo tôi được biết, nó được bán đi vào tháng 4 năm 2010.

Căn nhà thứ hai: Địa chỉ: 10372 Allen Dr, Garden Grove, CA 92840
002
007

Trịnh Hội mua căn nhà này ngày 1 tháng 5, 2006 với giá 830,000 USD và chỉ vay ngân hàng 664,000 USD. Nghĩa là Trịnh Hội đã bỏ ít ra $190,000 tiền túi để trả tiền nhà và các chi phí mua nhà. Người chủ cũ là nữ tài tử Kiều Chinh.



Historical


Căn nhà này sau đó được chuyển tên cho công ty Trinh Nguyen Inc.







Ca Secretary of State
Theo hồ sơ của tiểu bang California, công ty “Trinh Nguyen Inc.” do Nguyễn Cao Kỳ Duyên, lúc ấy là vợ của Trịnh Hội, thành lập ngày 17 tháng 2, 2006, chưa đầy 3 tháng trước ngày Trịnh Hội mua nhà. Tôi đã gọi đến văn phòng chuyên trách đăng ký các công ty của tiểu bang California thì được biết là Trinh Nguyen Inc. đã giải tán ngày 20 tháng 3, 2009.
Ngày 26 tháng 6, 2009 công ty Trinh Nguyen Inc. chuyển nhượng căn nhà này trở lại cho Trịnh Hội 3 tháng sau khi công ty này giải tán. Xem:
Clear Tittle
Washington House


Căn nhà thứ ba:Địa chỉ: 1802 S St NW, Washington, DC 20009







Trịnh Hội tậu căn nhà này ngày 20 tháng 4, 2007 với giá là 1,035,000 USD. Tiền vay ngân hàng là 800,000 USD, nghĩa là Trịnh Hội đã phải trả tiền mặt khoảng 270,000 USD cho cả tiền nhà lẫn các khoản chi phí mua nhà. Dưới đây là hồ sơ thuế của căn nhà cho thấy Trịnh Hội đã bán nó vào tháng 7, 2014 với giá 1,235,000 USD:

1802
Trên đây là những căn nhà mà tôi truy ra nhờ sự mách bảo của nhiều quý vị trong cộng đồng ở Hoa Kỳ. Tôi đang muốn biết rằng Trịnh Hội có sở hữu bất động sản ở Úc, Canada hay các quốc gia Á Châu hay không. Xin quý vị nào có thông tin thì mách bảo.

Tiền ở đâu ra? 

Chắc chắn, lương 100 USD một tháng thì không thể nào mua 3 căn nhà mỗi năm một cái, lại trả tiền mặt lên đến gần 2 hay gần 3 trăm ngàn USD mỗi cái

Thế thì thu nhập của Trịnh Hội ở đâu ra?

Có nhiều dấu hiệu cho thấy một nguồn thu nhập của Trịnh Hội có thể là các khoản gây quỹ nhân danh giúp định cư đồng bào thuyền nhân đến Mỹ hay đến Canada.

TH
Trịnh Hội và Nguyễn Quốc Lân (người đứng cạnh Trịnh Hội) – hình ảnh trên báo Người Việt.

Năm 2005, Trịnh Hội và người bạn là LS Nguyễn Quốc Lân vận động gây quỹ để đưa luật sư người Việt sang Phi Luật Tân nhằm giúp định cư cựu thuyền nhân vào Hoa Kỳ. 

Tuy nhiên, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã khẳng định rõ rằng họ “không cần và không chào đón sự giúp đỡ của luật sư người Việt nào trong việc định cư các người còn kẹt ở Phi Luật Tân” (The U.S. State Department has made it clear it does not need or welcome help from the Vietnamese attorneys in resettling those who remain in the Philippines). 
Đã không được chào đón và không cần thì tại sao Trịnh Hội và Nguyễn Quốc Lân vẫn nhất định gây quỹ để gởi luật sư đến Phi Luật Tân?

Hai người này dùng danh nghĩa LAVAS, viết tắt của tên chính thức là Legal Assistance for Vietnamese Asylum Seekers, một chương trình có từ năm 1990 của BPSOS. Cũng theo báo Houston Chronicle, vào thời điểm năm 2005 tổ chức LAVAS đã không còn đăng ký hoạt động với sở thuế Liên Bang (mà chỉ còn là một chương trình trực thuộc BPSOS). Trả lời báo Houston Chronicle, LS Nguyễn Quốc Lân cho biết là ông đã đăng ký một tổ chức LAVAS khác, như một công ty tư nhân chứ không phải là một tổ chức bất vụ lợi. 

Trả lời báo Houston Chronicle, nhân viên Phòng Thuế Vụ của tiểu bang California cho biết: “các tổ chức được miễn thuế phải công bố hồ sơ tài chính. Nhưng hồ sơ tài chính của công ty tư như LAVAS thì được giữ bí mật.” (tax-exempt organizations are required to make their financial records public. But the financial records of private corporations such as LAVAS are confidential).

Công ty LAVAS mà họ dựng lên tuy cùng tên nhưng không phải là LAVAS nguyên thuỷ do BPSOS thành lập năm 1990. Không ai ngoài Trịnh Hội và Nguyễn Quốc Lân biết là họ đã thu bao nhiêu tiền qua các buổi gây quỹ, chi bao nhiêu, cho những việc gì, và còn lại bao nhiêu. Theo những tin tức tôi có được thì qua hai đợt gây quỹ, họ đã thu trên 300,000 USD.

Để phối kiểm, tôi đã nói chuyện với văn phòng hữu trách của tiểu bang California, thì được cho biết là không hề có công ty tư hay hội đoàn nào mang tên LAVAS hay Legal Assistance for Vietnamese Asylum Seekers đăng ký với tiểu bang như LS Nguyễn Quốc Lân tuyên bố với tờ Houston Chronicle. Tôi vào trang mạng của tiểu bang California để truy cập thì câu trả lời là “record not found” – không tìm thấy hồ sơ:
LAVASLAVAS2
Đây là nơi mọi người có thể tự phối kiểm: http://kepler.sos.ca.gov/
VOICE Hist

Liệu nó có được đưa cho VOICE vì Trịnh Hội vẫn công khai nhận rằng VOICE đã giúp định cư 1,573 thuyền nhân Việt Nam từ Phi Luật Tân vào Hoa Kỳ trong những năm 2004-2007? Thế nhưng VOICE chỉ ra đời năm 2007, và do đó cũng không thể nào đứng ra nhận số tiền gây quỹ trong các năm 2005-2006. 

Vậy thì ai đã nắm số tiền đó? 
Trang web của VOICE tự nhận là đã giúp định cư 1,573 thuyền nhân từ Phi Luật Tân vào Hoa Kỳ từ 2004 đến 2007.

Hơn nữa, theo một số thông tin mà tôi nhận được, những cuộc gây quỹ cho VOICE gần đây để định cư cựu thuyền nhân từ Thái Lan đến Canada cũng có điều khuất tất. Một số thành phần thuộc ban tổ chức ở nhiều nơi ở Hoa Kỳ và Canada cho biết là Trịnh Hội đòi chia 40% – 50% số tiền gây quỹ được. Có lẽ do há miệng mắc quai, họ không thể nói ra điều này nhưng nhất quyết không bao giờ gây quỹ cho VOICE nữa.

Kết luận: Hình ảnh mà Trịnh Hội tự tạo cho mình – một luật sư trẻ sống đạm bạc để xả thân cho đồng bào tị nạn – chỉ là một tuồng kịch để dối gạt mọi người. Ngay sau khi tôi ra Thông Báo 7 về VOICE ngày 3 tháng 4, có một số người ủng hộ VOICE đã gọi điện thoại cho tôi để bênh vực Trịnh Hội. Họ khẳng định với tôi rằng Trịnh Hội nghèo lắm vì chỉ suốt đời tình nguyện làm việc nghĩa, rằng tôi đã nghĩ oan cho Trịnh Hội,v.v. Những người này đã bị lừa. Thử hỏi người làm ăn lương thiện có mấy ai mua nổi cứ mỗi năm một căn nhà? Đằng này, Trịnh Hội “khoe” là chỉ nhận trợ cấp 100 USD/tháng mà lại có tiền mua mấy căn nhà liền liền để đầu tư và cho thuê.
Tôi thấy cái gì Trịnh Hội cũng nói dối được cả. Như là:
1.       Trịnh Hội nói, vào thời điểm đầu năm 2007, không quen biết gì mấy với Hoàng Tứ Duy, con trai đầu lãnh Việt Tân Hoàng Cơ Định và hiện là Phát Ngôn Viên của Việt Tân. Đó là nói dối vì thực ra Trịnh Hội đã quen Hoàng Tứ Duy năm 1999, rồi khi qua Hoa Thịnh Đốn năm 2002 thì ở nhà và dùng xe của Hoàng Tứ Duy, và đồng thành lập VOICE với Hoàng Tứ Duy đầu năm 2007.
2.       Trịnh Hội nói là trước 2007 không biết gì về đảng Việt Tân. Đó là nói dối vì thực ra Trịnh Hội đã làm việc với Bs. Nguyễn Đỗ Thanh Phong, một đầu lãnh của Việt Tân ở Úc, ít ra từ năm 2001.
3.       Trịnh Hội nói là VOICE không quan hệ gì với Việt Tân về hoạt động hay tổ chức. Đó là nói dối vì thực ra VOICE đã dùng cơ sở của mình để chuyển người cho Việt Tân từ Việt Nam sang Thái Lan và Phi Luật Tân, giúp Việt Tân cài người vào chương trình đào tạo nhân quyền của Ls. Nguyễn Văn Đài, và đồng tổ chức hai Đại Hội Thanh Niên Sinh Viên Việt Nam Thế Giới năm 2008 và 2011, một sinh hoạt thường kỳ của Việt Tân.
4.       Trịnh Hội nói là VOICE được thành lâp năm 1997 và từ đó đã lập được nhiều thành tích giúp cựu thuyền nhân. Đó là nói dối vì VOICE chỉ hiện hữu từ đầu năm 2007. Những thành tích mà Trịnh Hội nhận vơ cho VOICE thực ra là của những người hay tổ chức khác.
5.       Trịnh Hội nói là từ 1997 đến 2007 không được ai tài trợ. Đó là nói dối vì Trịnh Hội được các tổ chức BPSOS, LAVAS và COVRSOA tài trợ từ khi đến Phi Luật Tân năm 1997 cho đến khi về lại Úc năm 1999.
6.       Trịnh Hội dùng tên LAVAS, vào các năm 2005 và 2006, để kêu gọi đồng hương đóng tiền để gởi luật sư giúp thuyền nhân định cư vào Hoa Kỳ. Đó là nói dối vì thực ra chính phủ Hoa Kỳ không cho phép luật sư Việt Nam can dự vào tiến trình định cư và tiền gây quỹ trên 300,000 USD thì không biết đi đâu. Trịnh Hội và người đồng loã đã lập ra một LAVAS giả để nhân danh cho việc gây quỹ, nhưng LAVAS giả đó chưa bao giờ đăng ký hoạt động và không hề công bố thu chi, và có lẽ cũng chẳng báo cáo với Sở Thuế Liên bang.
7.       Trịnh Hội “khoe” là sống rất nghèo vì chỉ được trợ cấp 100 USD/tháng trong thời gian 10 năm từ 1997 đến 2007. Đó là nói dối vì thực ra từ 2005 đến 2007, mỗi năm Trịnh Hội mua một căn nhà. Thu nhập hàng năm khoảng 30,000 USD/tháng chưa chắc đã tậu nhà một cách dễ dàng như vậy, nói chi 100 USD/tháng.

Vấn đề là tiền ở đâu ra? 

Tiền ấy có khai thuế không? 

Còn những tài sản chìm, nổi nào khác nữa? Các thu nhập do đầu tư địa ốc và cho thuê nhà có khai báo với sở thuế không?

Tôi đã cung cấp thông tin cho Đơn Vị Điều Tra Hình Sự của Sở Thuế Liên Bang Hoa Kỳ nhằm điều tra nếu như có sự gian lận hay trốn thuế. Bất cứ hành vi tẩu tán tài sản hay phi tang đều là phạm tội hình sự.

Tôi kêu gọi quý vị trong cộng đồng, đặc biệt quý vị làm trong ngành địa ốc, ở các quốc gia như Hoa Kỳ, Úc, Phi Luật Tân, Thái Lan, Việt Nam… xin hãy để ý xem  có người nào là tên là Trịnh Hội mà sở hữu tài sản ở địa phương mình thì xin báo cho tôi biết. Mọi nguồn tin sẽ được hoàn toàn bảo mật. Gởi cho tôi qua email: damphong@hotmail.com.

Trong bài viết trên blog VOA, Trịnh Hội khen Hoàng Tứ Duy hết lời. Điều này có thể hiểu được, vì “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”. Họ rất giống nhau.

Và VOICE cũng y hệt như Việt Tân do đó đã cấu kết với nhau ngay từ khi VOICE được thành lập. Cả hai cùng nói dối lem lẻm, và cùng mượn những điều cao thượng để lừa bịp và trục lợi.
Trân trọng,
.............................................................................................................................................


Today at 4:33 AM



 



Đây r
i ! Formosa : Đích danh th phm
Posted by adminbasam on 07/05/2016
Bùi Tín
7-5-2016

Thế là rõ.

Có chạy đằng trời !

Giải “Hành tinh đen” 2009 mà Formosa đã “giật” được. Nguồn: PTS News.
Đã một tháng nay bao nhiêu người băn khoăn, sốt ruột đi tìm đích danh thủ phạm vụ gây hàng ngàn vạn cá chết suốt vùng ven biển Đông nước ta.

Thì đây, bài báo của nhà báo Mỹ Diane Wilson đã kịp thời cất tiếng trên tin tức của Tổ chức “Eth-Econ Foundation”, do hai chữ Ethic và Economic kết liền nhau, với nghĩa Ethic là Đẹp đẽ, Economic là Kinh tế, một nền kinh tế Đẹp, sạch, thân thiện với môi trường.

Diane Wilson là nhà báo, một mũi nhọn đấu tranh bảo vệ môi trường quốc tế, năm 2006 được nhận giải thưởng cao quý nhất của Eth-Econ Foundation, Mang tên “Hành Tinh Xanh 2006” – “Blue Planet Award”.

Bài báo của D. Wilson chỉ rõ thành tích bất hảo có hệ thống của Công ty Formosa – Plastics đóng tại Đài Loan và có chân rết vươn ra các đại lục. Người cầm đầu công ty lớn này là công dân Đài Loan họ Vương, Vương Vĩnh Khánh. Người điều hành kinh doanh ở nước ngoài là Lý Chí Thuyên.

Từ những năm 1995, 1997, 1999 Công ty này đã nhiều lần đem hóa chất cực độc rải lén xuống ven biển tiểu bang Texas, rồi sau đó rải rất rộng ven Vịnh Mehicô bị lên án và kiện cáo nhiều lần, có lần phải đền 13 triệu đôla cho ngư dân Texas.

Vẫn chưa hết, Formosa còn từng cho tàu đến cảng Sihanukville của Cambốt, lợi dụng đêm bão đổ rác cực độc xuống cửa biển, bị chính quyền cảng bắt quả tang cảnh cáo và tống cổ khỏi cảng này, không dám quay lại.
Năm 2009 Formosa buộc phải nhận bằng khen mang tên “Hành Tinh Đen 2009” – “Black Planet 2009”, coi như một vết nhơ ghi trên trán, đặt bên thương hiệu của nó để toàn thế giới nhận rõ mặt nhơ bẩn và xa lánh.
Hiện Formosa còn cả một hệ thống bãi phế thải cực độc gồm có 169 bãi rác độc lớn nhỏ trên đất Đài Loan, chỉ có dịp là mang đi đổ phi tang xuống sông xuống biển các nước khác.

Chất độc của nó chủ yếu là hơn 4.000 tấn thủy ngân Mercury cực độc hại, là hàng ngàn tấn Ethylene Dicloride, Vinyl Cloride … hủy hoại các tế bào sống.
Cán bộ các Bộ TN và MT, Bộ NN và PTNT, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Kế hoạch Đầu tư có xem xét kỹ lịch sử, uy tín, hạnh kiểm kinh doanh của đại công ty gang thép – điện lực- hóa chất – cầu cảng có giá trị vài trăm tỷ đô la này hay không? Hay là những chiếc liếc tình, phong bì dày cộp, hoa hồng đưa dưới bàn ăn đã làm các vị say sưa mụ mẫn hết cả rồi. Và nay thì ăn làm sao nói làm sao ? Cụ Tổng Lú nhà ta có vẻ không lú một chút nào trong phi vụ cực lớn này. Cụ có vẻ chùi mép không kém gì ai đâu. Cứ quan sát kỹ mà xem.

Còn đợi gì mà không ra lệnh đóng cửa ngay cái Công ty Tội ác này, nó đang muốn biến ven biển Đông thành vùng biển đen, vùng biển chết suốt theo chiều dài của đất nước ta. Và phải truy chúng nó ra Tòa án quốc tế về Bảo vệ môi trường toàn hành tinh sống của cả loài người, và bồi thường cho hàng triệu ngư dân ta.

Các vị quan tâm xin hãy nối link với EthEcon : info@ethecon.org và http://www.ethecon.org/ để có thêm tài liệu sinh động.



















Posted by: loc huong 

Saturday 7 May 2016

BỘ MẶT THẬT CỦA SBTN




 
---------- Forwarded message ----------
From: Van-Nghe



__._,_.___

Posted by: truc nguyen
On Tuesday, April 26, 2016 11:56 PM, AU DANG <> wrote:

Dear Peter,

Từ lâu tôi đã nghi ngờ SBCN là do Việt Tân tài trợ. Vì Trúc Hồ là người trẻ mới sang Hoa Kỳ, tài chánh và tài năng không có mà làm Tổng Giám đốc đài truyền hình thì không thể được. Việt Tân vốn xuất thân từ Mặt Trận HCM đã phạm tội ác nên dễ bị Việt Cộng "blackmail" mà phải biến thành công cụ của Việt Cộng.
Bọn Việt Cộng không có khả năng xây dựng đất nước; nhưng chúng có thủ đoạn để nắm đầu bọn cơ hội. Việt Tân không thể thoát được thủ đoạn của cộng sản. Giám đốc chương trình Việt Ngữ từ thời Nguyễn Ngọc Bích đã là công cụ cho Việt Tân, nên RFA cũng rất dễ dàng bị trở thành công cụ của cộng sản mà không ý thức. Chuyển cho Peter xem một khám phá của ông Kiêm Ái.

Thân
Bằng Phong.

CHÚNG TÔI CỰC LỰC LÊN ÁN 

ĐÀI TRUYỀN HÌNH SBTN NHỤC MẠ QUÂN LỰC VNCH



Hồi 10 giờ 30 sáng 25.4.2016, tôi có dịp đến nhà bà chị tôi để đưa
một vài vật cần thiết mà bà nhờ tôi mua. Tôi chợt thấy đài SBTN
đang chiếu cảnh hai (2) người lính Nhảy Dù đang thay nhau sỉ  nhục một anh Thủy Quân Lục Chiến (cả 3 có xưng danh và có huy hiệu trên áo trận) một cách thậm tệ, thời gian rất lâu, khoảng 15 hay 20 phút. Anh Thủy Quan Lục Chiến vì chỉ có một mình nên đành đứng chịu trận cho đến khi không chịu được mới lên tiếng. Một lính nhảy dù và anh TQLC bỏ súng, cởi dây đạn, bỏ mũ rồi quần thảo với nhau. Trong khi đó, một tên VC bắn sẻ, cứ đưa mũi súng hướng về 2 " võ sĩ " cuối cùng thì tên VC nổ súng, lúc đó 2 người lính mới thôi đấu võ và cùng tìm tên VC. Cuối cùng, tên VC bị giết, nhưng " phe ta một chiến sĩ Nhảy Dù bị thương. Thỉnh thoảng (không phải thi thoảng như ngôn ngữ khốn nạn của VC mà bọn tay sai hải ngoại bắt chước) lại đưa
một sĩ quan cấp úy lên "phân trần": đánh nhau, bắn nhau nhưng khi có địch thì chúng tôi hợp tác chống trả (sic). SBTN chiếu cảnh này trích trong " Hồi Ức " của ai đó.

Đây là cảnh bịa đặt mà tác giả (tôi không biết là ai vì mắt bị mờ vì
nước mắt) muốn tạo ra để làm nhục Quân Lực VNCH nhất là 2 binh chủng Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến. Vì sao? Tại sao lính đang
ở mặt trận súng đạn cùng mình, giữa rừng mà đi có một mình (TQLC) và 2 mình (Nhảy Dù). Không có đồng đội, không có cấp chỉ huy. Khu vực này lại không an toàn, đang hành quân, bằng cớ là VC có mặt và đang hướng nòng súng có ống nhòm, chuẩn bị bắn sẻ. Đài SBTN có ý gì khi chiếu cảnh đấu đá nhau kịch liệt, nếu không có tên VC bắn sẻ thì chắc chắn phải một mất một còn giữa 2 binh chủng Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến?

Giữ vợ chồng có khi cũng xảy ra bất hòa, đánh nhau, giữa anh em ruột cũng có lúc quyết liệt, nhưng nhè những Ngày Quốc Hận mà đưa cảnh này lên, tôi xem mà máu trong người sôi lên, mờ cả mắt.

Xin các cấp trong Quân Lực VNCH, nhất là cấp chỉ huy của 2 binh chủng Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến lên tiếng và SBTN cũng phải cho biết lý do. Xin những ai có email của SBTN chuyển lời giùm.

Kiêm Ái


__._,_.___

Posted by: =?UTF-8?Q?NGUY=1AN_HO=C3=AF=C2=BF=C2=BDNG_B=C3=AF

Thursday 5 May 2016

Tên CS nằm vùng hãi ngoại Trúc Hồ tuyên bố: "Lật đỗ CHXHCNVN là sai lầm" !!!......Quý độc giã tỵ nạn CS tại quốc nội cũng như hãi ngoại nghe có chói tai không?

 
Matthew Trần:

Có đầy đũ fương tiện truyền thông ( Saigon Broadcasting Television Network), tài năng đầy mình mà không ra tay zúp đỡ những nạn nhân như CH/TPB Trần Văn Phụng zưới !!
Thay vì ngày đêm kêu gọi nVtnvchãingoại đễ yên cho kẽ độc tài (CSVN) hành hạ đồng bào chúng ta ??
Các chiến hữu cùng một chiến tuyến với tôi ...nghĩ sao đây??
MT

Tên CS nằm vùng hãi ngoại Trúc Hồ tuyên bố: 

"Lật đỗ CHXHCNVN là sai lầm" !!!

Quý độc giã tỵ nạn CS tại quốc nội cũng như hãi ngoại nghe có chói tai không?


 From: "Cua Huynh munau37 wrote
Sent: Wednesday, May 4, 2016 4:11 PM
Subject:  TPB Trần Văn Phụng  

 
Kính chuyển
(Xin dành vài phút đọc bài này để cảm thông sự nghiệt ngã đang bao trùm người lính TPB/VNCH trong chiến tranh và dưới chế độ CS.)

HVC

 Người Thương Binh và Bóng Tối đang bao trùm chính mình.
                    blank
Anh Trần Văn Phụng.


Tôi cầm phong thư của hội H.O Cứu Trợ Thương Phế Binh & Quả Phụ Việt Nam Cộng Hòa với một tờ giấy trắng ghi rõ các chi tiết về người thương binh tên Trần Văn Phụng, bị mù hai mắt, cánh tay trái bị gẫy, mặt bị dị dạng, ký hiệu # 780 KH, địa chỉ thôn Phú Bình, xã Cam Tân, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa.

Một tờ giấy khác in bức hình màu anh Trần Văn Phụng, người đàn ông nhỏ con, gầy gò, ngồi trên một chiếc ghế thấp. Anh mặc chiếc áo sơ mi ca-rô ngắn tay, chiếc quần đùi sọc đen. Anh mù mắt. Hai cánh mũi bẹt ra trên khuôn mặt dài ngoằng, méo mó, nửa bên mặt màu nâu sẫm. Cánh tay mặt teo lại nổi lên những sợi gân cong queo. Cánh tay trái xòe ra đủ năm ngón đặt trên đùi.

Được biết ngày một tháng một năm hai ngàn mười sáu, Hội “HO Cứu Trợ Thương Phế Binh và Quả Phụ VNCH” tại nước Mỹ phát động phong trào “Một Gia Đình, Một Thương Phế Binh”, kêu gọi người Việt đồng hương tiếp tay với Hội, bảo trợ một năm hai trăm bốn chục đồng cho những thương phế binh thuộc loại nặng như mù hai mắt, liệt hoặc cụt một hoặc hai tay và chân.

Trường hợp thương phế binh nhẹ như mù một mắt hoặc bị nội thương, cụt một tay hoặc chân được bảo trợ một trăm hai chục đồng.

Tôi gửi điện thư xin được bảo trợ cho một thương phế binh và sau đó nhận được hồ sơ và tấm hình của anh Trần văn Phụng. Khuôn mặt và đôi mắt trong hình ám ảnh tôi nhiều đêm. Tôi quyết định về Việt Nam để gặp đôi mắt ấy.

Bữa ăn tối đầu tiên trên máy bay của hãng hàng không Eva Airlines đã được các cô tiếp viên phục vụ chu đáo. Chuyến bay về Việt nam sau Tết trống nhiều chỗ.

Tôi chiếm ba chiếc ghế sát nhau làm thành cái giường nhỏ, tạm ngả lưng cho một chuyến bay dài. Đèn tắt. Thời tiết tốt. Máy bay êm. Vẫn là giờ Mỹ. Tiếng ngáy khò khò, tiếng ho khục khặc, tiếng la, khóc, mè nheo của những đứa trẻ, tiếng rì rầm, đều đều của cỗ máy trong đêm khuya. Chỗ nằm lạ. Khung cảnh lạ. Đôi mắt tôi mở trao tráo nhìn trong bóng đêm.
 Những ký ức xa xưa hiện về. Hình ảnh cuộc chiến tranh kéo dài hai mươi năm. Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, nơi chôn cất những chiến sĩ Việt nam Cộng Hòa đã hy sinh. Những đôi mắt mù lòa, những cánh tay, ống chân bị thương tật của những người thương binh còn sống lây lất ở quê nhà.

blank
Tác giả và gia đình anh Phụng.

Hãy nhìn đôi mắt của người thương phế binh Trần Văn Phụng? Đó là hai cái lỗ sâu hoắm, tròng trắng và tròng đen đã bị nướng khô trong bom lửa. Đôi mắt ấy chỉ còn lại hai miếng thịt màu đỏ và một màn đêm tăm tối. Những vết sẹo lồi lõm trên khuôn mặt bị cháy nám và cánh tay cụt sẽ mãi mãi gắn liền trên thân thể anh cho đến suốt đời.



Thời đi lính dưới chính thể Việt nam Cộng Hòa, những người lính không may bị thương trở thành những người thương phế binh.

 Giờ đây, một lần nữa, họ không may vì không đủ điều kiện để được ra đi định cư ở nước ngoài theo diện nhân đạo của chính phủ Mỹ.

Hiện nay, có khoảng hai mươi ngàn thương phế binh còn sống sót tại miền Nam trong đó có khoảng từ ba ngàn đến năm ngàn người xếp vào loại tàn phế. Là “ngụy quân”, bị phân biệt đối xử, họ không được một phúc lợi xã hội nào.

 Họ phải tự bươn chải với thân thể tật nguyền bằng các nghề cơ cực như bán vé số, xin ăn hoặc phải nương tựa vào thân nhân.
Một quyển sách có tên là “ Những mảnh đời rách nát” gồm những bài viết của những thương phế binh ở miền Nam ghi lại đời sống nghèo khổ, vất vưởng, già yếu, bệnh hoạn và khốn cùng của họ được gửi sang Pháp, in lại và lưu hành.

Quyển sách đã đánh động vào tấm lòng nhân đạo của những người Việt xa xứ. Từ đó cộng đồng người Việt khắp nơi có cơ hội nghĩ đến những người thương phế binh bất hạnh còn kẹt lại quê nhà.

Từ năm một ngàn chín trăm chín mươi hai cho đến nay, một tổ chức tự nguyện tại California có tên là Hội HO Cứu Trợ Thương Phế Binh và Quả Phụ VNCH ra đời. Hơn hai mươi năm hoạt động,

 Hội không có nguồn tài trợ nào ngoài sự đóng góp của đồng hương người Việt và các chương trình đại nhạc hội gây quỹ. Với tất cả sự cố gắng và tình thương dành cho họ,
Hội chỉ có thể giúp được bảy mươi phần trăm trong số hai mươi ngàn hồ sơ thương phế binh và quả phụ tử sĩ từ Việt nam gửi sang trong đó có hồ sơ người thương phế binh tên Trần Văn Phụng.
*

Chuyến bay Sài Gòn- Nha Trang bằng hãng Jet Air cất cánh trễ ba tiếng đồng hồ. Họ dồn khách từ chuyến mười hai giờ vào chuyến ba giờ cho đủ ghế.
 Hành khách không phàn nàn có lẽ vì họ đã quen cách làm việc của hãng hàng không giá rẻ này. Vì thế không lạ khi chuyện trễ giờ không có gì mà ầm ỹ.



Đoạn đường từ Cam Ranh đến thành phố Nha Trang chỉ có ba mươi lăm ki-lô-mét. Đi bằng xe bus đậu ở phi trường phải chờ đủ người, mất hơn một tiếng đồng hồ và tiền vé là sáu mươi lăm ngàn, chưa đến năm đô.

Theo lời dặn của Liễu, con gái anh Phụng, tôi mặc cả chiếc xe taxi chạy thẳng đến ngã ba thôn Phú Bình, thị xã Cam Tâm mất ba mươi phút và ba trăm ngàn tương đương với mười lăm đô. 
(   Di taxi ma cung tra gia duoc sao ? )

Từ ngã ba Cam Tâm đến nhà anh Phụng mất ba cây số, xe taxi có thể vào được. Tại đây, Liễu sẽ đón tôi và dặn sẽ mặc chiếc áo màu đỏ để tôi dễ nhận ra.

 Qua điện thoại, Liễu có giọng nói của người Bình Định nhưng dễ nghe. Tôi hình dung một cô Liễu… yếu đào tơ nào ngờ cô là một cô gái nhà võ, vạm vỡ, to con thuộc loại “con gái Bình Định múa roi đi quyền”. Liễu đeo cái khẩu trang, nón và khăn trùm đầu bịt kín mặt chỉ chừa đôi mắt. Trời nắng và nóng hầm hập nhưng Liễu nai nịt nào là áo dài tay, áo trong, áo khoác ngoài, đeo găng đen đến cùi chỏ, giày bít, vớ đen trông Liễu giống như nhân vật Ninja hay anh hùng Lương Sơn Bạc.

Liễu dặn dò:

- Đường bụi và nhiều ổ gà xóc lắm. Cô theo taxi chạy thẳng vào nhà con nha cô. Con chạy trước dẫn đường.

Tôi nghe lời Liễu trả thêm sáu chục ngàn tắc xi. Con nhỏ phóng xe gắn máy như bay trên con đường đá đỏ bụi mù.


Huyện Cam Lâm có mười ba xã cùng có tên bắt đầu bằng chữ Cam. Cam Tâm là một trong những xã nghèo của huyện.
Nhà cửa rải rác, đất đai cằn cỗi, người dân đen đủi, lam lũ nhuộm màu sương nắng, sống bằng nghề canh nông, mùa nào trồng thức ấy, nuôi bò hay buôn bán hàng xén lặt vặt. Trường mẫu giáo Sơn Ca có hai lớp học nằm chơ vơ giữa cánh đồng.

Cũng may mạng lưới điện đi vào đến xã nên người dân Cam Tâm hưởng được ánh sáng văn minh của các sinh hoạt giải trí như truyền thanh, truyền hình. Xe ngừng trước căn nhà gạch nhỏ lợp tôn cũ kỹ.
Một người đàn ông gầy ốm, đang ngồi trên chiếc giường thấp trước cửa, bên cạnh là cây gậy. Tôi đoán chắc đây là anh Nguyễn Văn Phụng Trông anh không khác gì với tấm hình trong hồ sơ tôi nhận được từ Hội Bảo Trợ Thương Phế binh.

Liễu dựng xe trước thềm, miệng nhanh nhẩu:

- Ba ơi, Cô A-ni về rồi nè Ba. Ba con ngồi đây nãy giờ chờ Cô về đó. Hồi ở Mỹ cô gọi về thăm ba, ba con mừng và mong cô lắm. Bây giờ ba muốn nói gì với cô thì ba nói đi.


Tay trái anh sờ soạng vào chiếc giường, chầm chậm đứng lên, hướng mặt về phía Liễu, nụ cười méo mó trên khuôn mặt bị biến dạng, lồi lõm những vết sẹo nám đen. Thân hình nhỏ bé trong chiếc áo sơ mi xanh cũ kỹ và chiếc quần sọt sọc đen.
Đặc biệt là tiếng nói của anh sang sảng rặt giọng một ông già Bình Định, chữ “a” thành chữ “e”. Tôi chưa kịp chào, anh đã nói liên tiếp một tràng hỏi thăm sức khỏe.

- Cám ơn cô A-ni đã cất công từ Mỹ về thăm. Cô đi đường có khỏe không? Mời cô vào nhà uống xí nước. Liễu mời cô vô nhà đi con.

Tôi đứng ở chiếc cửa gỗ, nắm bàn tay lành lặn của anh và nhìn vào mắt anh thật lâu. “Nhìn tận mặt, bắt tận tay”. Bây giờ tôi đã thấy rõ đôi mắt của người lính mù. Đôi mắt nhăn nhúm không có tròng trắng và tròng đen. Chỉ là hai miếng thịt màu đỏ tươi đọng ở mí mắt dưới.

Anh ngồi trên chiếc giường gỗ cạnh chiếc quạt, chung quanh là những đồ đạc mùng, mền, chiếu, gối, khăn, áo, thuốc men và các dụng cụ làm vệ sinh.Thế giới của người mù gói ghém chung quanh không gian nhỏ bé này.
Chị Phụng gầy ốm, da xanh mét bước ra chào. Căn nhà nền đất chất đầy các vật dụng linh tinh cũ kỹ, bụi bặm.
 Chiếc bàn thờ ông bà ở giữa và một tấm phản gỗ cạnh đó. Không có vật gì quý giá ngoại trừ cái ti vi và cái tủ lạnh là dấu tích của đời sống văn minh đô thị cũng xưa cũ như tuổi già của chủ nhân.
Ngồi trên chiếc giường gỗ bên cạnh anh, tôi mở đầu câu chuyện hỏi thăm anh về hoàn cảnh gia đình, đời lính, những thương tật, những mơ ước. Ngoài sân nắng rực rỡ.
 Hai hốc mắt nghiêng nghiêng nhìn lên bầu trời như chìm đắm vào ký ức xa xôi. Anh kể chuyện bằng giọng người Bình Định khó nghe, khi trầm buồn, khi nghẹn ngào, khi ngắt quãng, khi yên lặng thật lâu. Có lúc nước mắt đọng trên hai hốc mắt rồi khô đi từ lúc nào.

-“Nhà tui nghèo lắm. Nghèo ba đời, ông cố, ông nội và đời tui.Tui cưới má con Liễu sanh hai thằng con trai chết vì bệnh sau bảy lăm. Chỉ còn một con Liễu ni còn sống đến chừ. Cô biết thời đó mần răng mà có thuốc men. Phần vì nghèo quá không tiền chữa chạy cho con trên bệnh viện tỉnh, tui nhìn hai đứa con chết mà thương.

 Má con Liễu bệnh hoài. Bả bán trầu cau ở chợ trong thị xã ngày kiếm được vài ba chục ngàn không đủ tiền chợ. Bữa mô bệnh thì nghỉ có khi cả tháng.

Đi khám ở xã, xã chuyển lên nhà thương tỉnh, tỉnh chuyển lên thành phố. Tính riết hết nổi cô ơi. Tiền ăn, tiền ở, tiền thuốc, tiền xài lấy đâu ra.
Ở nhà kiếm ba cái thuốc Nam uống cũng đỡ. Vợ chồng tui sống nhờ vào cái xe bán bánh mì của con Liễu. Ngày đắt thì được trăm ngàn, ế thì được sáu bảy chục.
Cũng sống qua ngày. Má nó nghỉ bán, phụ con Liễu, còn tui ngồi một chỗ không mần răng được giúp vợ con. Tui bây giờ là người tàn phế rồi. Buồn lắm cô ơi. Thấy vợ con cực khổ...”

Lúc này, đôi mắt anh như chìm vào khoảng không, đôi khi anh nhắm lại như cố kềm giữ những giọt nước mắt. Anh kể về người lính Trần Văn Phụng hơn bốn mươi năm về trước và trận pháo kích xảy ra trong đêm giao thừa Tết Mậu Thân.

“Năm nay tui bảy mươi bốn tuổi. Tui đi lính lúc hai mươi lăm tuổi, cấp bực trung sĩ thuộc trung đoàn 40, biệt đội quân báo thuộc sư đoàn 22 đóng ở thị xã Qui Nhơn. Bây chừ tui còn nhớ rõ hình ba ngọn núi, hai con sông “Tam Sơn Nhị Hà” là huy hiệu của sư đoàn 22 bộ binh.
Sư đoàn này có ông trung tá chỉ huy trưởng tui quên tên, ổng giỏi và thương lính. Nghe nói ra trường Bộ Binh Thủ Đức, ổng đậu thủ khoa. Hồi đó trung đoàn 40 phối hợp với kỵ binh và cơ giới Mỹ đánh thắng hai tiểu đoàn Việt Cộng. Hai tiểu đoàn này thuộc sư đoàn 3 Sao Vàng Bắc Việt nổi tiếng là tụi “sinh Bắc tử Nam”.
Mình thắng trận này lớn lắm. Còn một trận thắng lớn nữa là trận Tam Quan trước năm Mậu Thân.

Hồi đó tui đóng quân ở huyện Hoài Nhơn, thị xã Bồng Sơn gần thành phố Qui Nhơn. Cô biết cái huyện này là vùng xôi đậu, ban ngày Quốc gia, ban đêm Cộng sản. Cả thị xã có một chi khu quân sự được gài mìn cờ -lây-mo, lô- cốt, hàng rào kẽm gai bao chung quanh. Bốn năm giờ chiều là đóng cổng rào. Bồng Sơn hồi đó là căn cứ địa của sư đoàn 3 Việt cộng.

 Dân nửa theo Việt cộng, nửa theo Quốc gia. Giao thừa năm Mậu Thân sáu tám, Việt cộng tổng tấn công bất ngờ. Chi khu bị đạn pháo kích tơi bời cả ngày lẫn đêm.Trận này chết nhiều lắm, cả ngàn người, đa số là dân.Tui còn nhớ tui bị thương nặng lắm.

 Bị trúng đạn pháo kích, tui mê man, bất tỉnh. Họ đẩy tui vô nhà xác. Về sau có người lính thấy tui còn ngáp ngáp, họ kéo tui ra, chở tui lên trực thăng về Quân Y Viện Cộng Hòa. Lúc đó tui có biết chi mô. Nếu không về Saigon kịp, coi như chết.

Nhìn cánh tay mặt gẫy quặp, các ngón tay teo tóp, nửa khuôn mặt và cần cổ nám đen nhất là hai miếng thịt đỏ trên đôi mắt, tôi nghẹn ngào hỏi anh vài câu nhưng anh vẫn yên lặng.

Liễu ghé bên tai anh:

- Cô ơi, cô phải nói thiệt lớn ba con mới nghe được. Ba con bị lãng tai nặng lắm.

Tôi nghiêng người ghé vào lỗ tai anh hỏi lớn:

- Hồi đó họ chữa trị anh như thế nào? Anh nằm bao lâu? Ai vô Saigon chăm sóc anh? Lúc đó gia đình anh sống bằng cách gì?

- Thời Việt Nam Cộng Hòa, tụi tui đi lính bị thương có tiền trợ cấp thương tật của chính phủ cũng đỡ.Tui không nhớ bao nhiêu nhưng tiền này tui lãnh trước ngày ba mươi tháng tư thì dứt.
Má tui và vợ tui buôn bán bậy bạ qua ngày ở Sài Gòn để kiếm thêm tiền chạy thuốc. Tui chết đi sống lại đó cô. Tui nằm bệnh viện một năm trời. Cũng may có ông bà sui gia ở Xóm Chùa trong Sài Gòn giúp đỡ.

Lành bệnh rồi tui ở lại Sài Gòn dưỡng bệnh ở nhà ông bà sui gia cả năm, khỏe hẳn rồi mới về Nha Trang. Hồi nằm nhà thương, cả tuần sau vợ và má tui mới biết tin vô Sài gòn kiếm. Ai cũng tưởng tui chết rồi. Họ vô bệnh viện tìm xác để chôn tui. Tui còn nhớ sau khi mổ, tỉnh dậy có một thân một mình, tui đau đớn rên la dữ lắm.
 Hồi đó phải chi anh lính đừng cứu tui, để tui chết cho rồi. Tui rờ thấy hai con mắt bịt kín, cánh tay bị băng bó. Ông bác sĩ mổ mắt đến giường nói ổng ráng mổ nhưng lửa cháy thui hai cái tròng trắng và con ngươi, ổng không cách nào cứu hai con mắt được.
 Thôi đành phải mổ lấy hai cục thịt đen ra. Tui bị đui luôn. Còn nửa cái mặt bị phỏng lan xuống cần cổ cũng bị lửa táp, sau này lành thành sẹo. Cánh tay phải bị cháy, teo hết gân nên xụi lơ. Cô thấy không, cháy hết cả cánh tay còn có một khúc thịt, rờ giống như ổ bánh mì.
Bữa mô trời lạnh gắt, nó hành rêm nhức dữ lắm.Còn cái tai tui có nghe được gì mô. Cô nói lớn bên hai tai ni tui mới nghe được.

Tôi lại ghé vào tai anh:


- Làm sao anh biết được có Hội Thương Phế Binh bên Mỹ để xin giúp đỡ ? Hiện nay anh có mong ước điều gì không? Có muốn nhắn gì với Hội không?

Nghe đến đây tôi thấy anh nhếch mép. Chiếc miệng rộng chỉ có da mà không còn chút môi để người đối diện biết được có một nụ cười và niềm vui trên khuôn mặt chằng chịt những vết sẹo:


- Bên này anh em tụi tui thương nhau lắm. Có mấy anh biết chương trình này, anh em bày cho nhau cách làm đơn gửi đi. Anh nào nhận được tin gì đều báo cho nhau biết như vừa rồi có tin đồn chính phủ Mỹ ký giấy cho anh em đi Mỹ. Có nhiều anh đọc báo, nghe tin tức bên Mỹ cho biết khó lắm, đừng hy vọng nhiều vì luật pháp Mỹ phải qua nhiều chặng. Dù gì tụi tui vẫn còn hy vọng.

- Còn mong ước gì? Tui chỉ mong Hội Thương Phế Binh đừng bỏ quên tụi tui. Ở đây có nhiều anh em nghèo, không thân nhân, sống khổ lắm. Họ mặc cảm bị bỏ rơi từ mấy chục năm nay. Mỗi khi anh em nhận quà của Hội họ mừng lắm. Ai cũng biết bà con bên đó đi làm cực khổ còn làm văn nghệ gây quỹ để có tiền gửi về giúp.Cho tui gửi lời cám ơn cô, cám ơn Hội thật nhiều. Tui mong ước có vậy.

*

Khi biết tôi sẽ đáp chuyến máy bay trễ nhất từ Cam Ranh về Sài Gòn lúc tám giờ tối, người tài xế tình nguyện chờ tôi hai tiếng ở nhà anh Phụng và sau đó chở tôi ra phi trường lúc sáu giờ rưỡi. Từ huyện Cam Lâm đến Cam Ranh có con đường mới xây, băng qua thành phố Nha Trang. Còn nhiều thì giờ, tôi trả thêm cho anh chút tiền. Anh chở tôi xem một vòng thành phố biển.

“Nha Trang là miền quê hương cát trắng. Có những đêm nghe vọng lại ầm ầm tiếng sóng xa đưa”.(4) Không thấy sóng, không nghe tiếng sóng biển ầm ầm cũng không đặt chân trên cát, trước mắt tôi là “Nha Trang by night” tràn ngập các thương hiệu quảng cáo mang tên nước ngoài.

Con đường Trần Phú song song với biển rực rỡ ánh đèn. Nhà mới đang xây, cửa hàng, cao ốc, khách sạn và nhà hàng mọc ra san sát. Một thành phố du lịch đang phát triển.
Tôi liên tưởng dĩa khoai từ và khoai lang củ chỉ to hơn ngón tay cái và vài quả chuối chín hái trong vườn nhà đãi khách “việt kiều” trong căn nhà mái tôn nóng chảy mồ hôi hột tại thị xã Cam Tâm.
Đi sâu vào các vùng xa mới thấy cuộc sống nghèo khổ của người dân quê và sự chênh lệch giàu nghèo giữa người dân thành phố và nông thôn hiện ra rất rõ.

Chuyến bay cất cánh đúng giờ lý do đây là chuyến bay cuối cùng trong ngày. Sau một ngày mệt nhọc, tôi ngủ vùi cho đến khi cô tiếp viên đánh thức tôi dậy. Máy bay chuẩn bị hạ cánh. Giấc ngủ chỉ kéo dài có bốn mươi lăm phút mà tôi ngỡ như mình đã ngủ từ lâu lắm. Tôi đã nằm mơ. Tôi mơ thấy đôi mắt anh Phụng. Đôi mắt rực sáng, mở to nhìn tôi. Ánh mắt thật hiền hòa và thật buồn.

Tôi nhớ lại câu chuyện kể về chiến tranh, tai nạn làm anh chết đi sống lại, về người vợ bệnh tật, đứa con gái vất vả bán bánh mì nuôi cha mẹ, cảnh nghèo của gia đình anh và giây phút cuối cùng chia tay anh trước sân nhà.
Tôi ngồi trong xe taxi, vẫy chào gia đình anh qua khung cửa kiếng, Hình như anh đang khóc. Anh khóc thật. Những giọt lệ hiếm hoi đang đọng trên hai hốc mắt và từ từ rơi chậm trên đôi má hóp.
Tựa cây gậy vào đùi, anh hướng về phía xe đang nổ máy, giơ bàn tay trái lành lặn chùi nhẹ những giọt nước mắt và vẫy chào tôi.
Lúc đó tôi biết rằng đây là lần đầu tiên và có lẽ là lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau. Anh đã gặp, đã nhìn tôi nhưng trong hai hốc mắt có miếng thịt màu đỏ ấy, anh không bao giờ thấy tôi cả.

*

Tôi còn nợ. Một bạn đọc tên là “Saigonmylove” sau khi đọc bài viết của tôi “Bố con là người lính” đăng trên Việt Báo đã viết lời góp ý “ Đọc xong bài này, thật là ngậm ngùi cho những anh hùng tử sĩ Việt Nam đã đền nợ nước mà chưa bao giờ vinh dự nhận câu nói “Thank you for your service”. Nhân dân miền Nam còn nợ các anh câu đó. Chúng tôi hy vọng có ngày được về đứng trước Nghĩa Dũng Đài để trả nợ các anh câu đó.”

Tôi đến Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa vừa đúng lúc một trận mưa rào đổ ập xuống. Chiều phi trường và chiều nghĩa trang là hai cảnh đời “sinh ly, tử biệt”, ai đến đây mà không vương nỗi đau xót, ngậm ngùi. Tôi cầm dù, chạy băng qua cổng Tam Quan vào Đài Tử Sĩ tìm chỗ trú mưa.

Cảnh vật ở đây hoang phế, điêu tàn. Cây cối um tùm. Con đường đất cát lầy lội sau cơn mưa. Nhiều nấm mộ không bia, gạch đá tung vãi, nằm chơ vơ, lạnh lẽo bên lối đi như một khối đất hoang. Bức tượng “Thương Tiếc” của điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu ghi lại hình ảnh người lính Việt Nam Cộng Hòa đã bị giật sập và phá hủy sau ngày ba mươi tháng tư.

Chiều nghĩa trang vắng lặng, âm u và thật buồn. Chỉ có một mình tôi trước ngọn tháp Nghĩa Dũng Đài. Hồn tử sĩ như phảng phất quanh đây. Tay cầm nắm hương đang bốc cháy, tôi lâm râm khấn nguyện: “ Xin gửi theo làn khói trầm hương lời cám ơn các anh.
 Xin cám ơn mười tám ngàn người lính Việt Nam Cộng Hòa đã anh dũng hy sinh trong cuộc chiến tranh và được chôn cất tại nơi đây. Xin nguyện cầu cho các vong linh được yên nghỉ bình an nơi mảnh đất tạm dung này”.

Chiếc xe taxi chở tôi về lại thành phố. Ngày mai tôi sẽ rời Sài Gòn để trở về Mỹ. Cuộc chiến đã trôi qua và chìm lắng theo thời gian.

Những lời cám ơn muộn màng và không đủ cho những người đã nằm xuống và những người thương binh còn lại đang sống vất vưởng ở Việt Nam.
Những chia sẻ về vật chất khiêm tốn và nhỏ bé không bù đắp được sự hy sinh của các anh.

Chúng tôi, những người Việt tha hương không bao giờ quên các anh, những người đã mất mát, thiệt thòi và chịu nhiều đau khổ trong thời chiến.

Trên đường về, tôi nghe đâu đây lời bài hát “Nhớ người thương binh”của Phạm Duy âm điệu ngân nga luyến láy làm ray rứt lòng người:

…“ Chàng về nay đã cụt tay. Chàng về... “Người quê còn nhớ người chăng. Vì vào chốn tử sinh. Chiến trường quên thân mình. Người về... có nhớ thương binh. Người về có nhớ...

Viết cho ngày 30 tháng 4 năm 2016.


Phùng Annie Kim.

Flag of South Vietnam.svg
alt

-

Anh Trúc Hồ & hằng ngày làm chi mà không ra tay cứu giúp các TPB/QLVNCH như chiến hữu zưới đây??
__._,_.___


Posted by: <vneagle_11@yahoo.com

Featured post

Bản Tin buổi sáng22/4/2024

Popular Posts

Popular Posts

xx

xx

My Blog List