On Sep 7, 2017, at 9:59 PM, Lu Giang ChinhNghiaViet] <> wrote:
Nhất Hạnh và mặt trái
đàng sau
Lữ Giang
Đài BBC ngày 30.8.2017 cho biết Thiền sư Nhất Hạnh đã về thăm quê
hương sau một thập niên xa cách. Chuyến bay đưa Thiền sư đã hạ cánh tại Đà Nẵng
vào trưa hôm thứ Ba 29/08. Trong chuyến về Việt Nam lần này, “Sư Ông” sẽ về
thăm Tổ đình Từ Hiếu, Huế - nơi “Sư Ông” bắt đầu con đường xuất gia tu học vào
năm 1942.
Báo Tuổi Trẻ trong nước ngày 29/8 cho biết “tham gia đoàn đón
thiền sư tại Đà Nẵng có Thượng tọa Thích Thanh Phong, trưởng ban kinh tế tài
chính Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm TP.HCM”.
Thiền sư Nhất Hạnh về đến Đà Nẵng
Thượng tọa Thích Thanh Phong là một sư quốc doanh, hay nói rõ hơn,
một sư công an, có tên thật là Phạm Đức Phong, sinh năm 1968 tại Hưng Yên, được
đưa từ chùa Quán Sứ Hà Nội vào Sài Gòn năm 2000, Ủy viên Thường trực HĐTS Trung
ương GHPG nhà nước, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội LHTNVN, được nhiều
bằng khen và giấy khen. Nhiệm vụ của ông là theo dõi các hoạt động của Thiền sư
Nhất Hạnh.
Một câu hỏi được đặt ra là ngoài việc thăm tổ đình Từ Hiếu, Thiền
sư Nhất Hạnh còn có sứ mạng nào khác không? Trước khi tìm câu trả lời, chúng
tôi xin nhắc lại vài nét về Thiền sư Nhất Hạnh.
VÀI
NÉT VỀ THIẾN SƯ NHẤT HẠNH
Lý lịch của Thiền sư Nhất Hạnh vẫn không được công bố như các vị
tăng sĩ nổi danh khác, có lẽ vì có nhiều điều không muốn nói ra. Sau khi sưu
tra tại Thừa Thiên, chúng tôi được biết Thiền sư Nhất Hạnh có tên thật là
Nguyễn Đình Bảo sinh ngày 11.10.1926 tại làng Thành Trung, xã
Quảng Công, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên. Khi viết sử, ông lấy bút hiệu là
Nguyễn Lang. Thân phụ là người gốc Thanh Hóa, mẹ người làng Lệ Lộc, quận Gio
Linh, tỉnh Quảng Trị. Ông là con thứ trong một gia đình 5 con. Ông có người em
là Nguyễn
Đình An dạy học ở Nha Trang
trước 1975. Hiện ở Long Điền còn có tổ
đình dòng họ Nguyễn Đình của
ông, nên chúng tôi xác định được ông tên là Nguyễn
Đình Bảo chứ không phải Nguyễn
Xuân Bảo.
1.-
Bị Hòa Thượng Trí Thủ đuổi ra khỏi chùa
Năm 1942 ông vào tu ở chùa Từ Hiếu, thôn Dương Xuân Thượng III,
phường Thủy Xuân, Huế, do Hoà thượng Huệ Minh trụ trì. Chùa này lúc đầu là
"Thảo Am An Dưỡng" do Hòa Thượng Thích Nhất Định lập và về sau được
vua Tự Đức ban cho "Sắc tứ Từ Hiếu tự". Vì sư tổ của Tổ đình Từ Hiếu
là Hòa Thượng Thích Nhất Định, nên khi đặt Pháp danh cho các tăng sinh tại đây,
các vị chủ trì thường dùng chữ “Nhất” để làm chữ đệm. Có lẽ cũng vì thế, Nguyễn
Đình Bảo đã được ban cho Pháp danh là Nhất Hạnh.
Cuối năm 1947, Phật học đường Trung Việt được lập tại chùa Báo
Quốc do Hòa Thượng Thích Trí Thú làm Giám viện. Tăng sinh Nhất Hạnh được đến
học tại đây, nhưng không hiểu vì lý do gì sau một thời gian ông bị thầy Trí Thủ
đuổi ra. Ông Võ Văn Ái, người thường sát cánh với Thiền Sứ Nhất Hạnh đã tiết
lộ: “Việc
thứ hai xẩy ra vào cuối thập niên 40, thời ông là học tăng tại chùa Bảo quốc,
Huế. Chẳng
biết phạm lỗi gì rất nặng, nên bị đuổi ra khỏi chùa. Cố Hoà thượng T.T. (Trí
Thủ) gửi thư đến các chùa từ miền Trung vào tới Nam ra lệnh cấm không được chứa
chấp ông. Thế nhưng ông vẫn giữ bộ áo tăng sĩ, không ra đời.
Tôi nghĩ những hành động đi riêng sau này của ông đối với Phật giáo Việt, phải
chăng là một cách “trả thù” sự ép chế trước kia?”
(Lê Thị Huệ, Phỏng vấn nhà thơ, nhà tranh đấu nhân quyền Thi Vũ Võ Văn Ái, Câu
hỏi và trả lời 43).
Thiền Sư Nhất Hạnh không bao giờ tự nhận mình là Đại Đức, Thượng
Tọa hay Hòa Thượng. Những danh xưng này do người khác gán cho ông mà thôi. Ông
không phải là tăng sĩ.
2.-
Được đi du học Hoa Kỳ
Cuối năm 1948 ông rời Huế và lên Đà Lạt cư trú ở chùa Linh Dơn do
Hòa Thượng Thích Từ Mãn trụ trì. Ông và Đại đức Thích Thiện Minh mở lớp Sơ đẳng
Phật học dạy về Phật giáo. Sau đó ông xuống Nha Trang học trung học. Năm 1956
ông vào Sài Gòn học Đại Học Văn Khoa và cư ngụ ở Phật Học Đường Nam Việt, số
243 Sư Vạn Hạnh, Quận 10, Saigon. Từ năm 1964 Phật Học Đường này trở thành chùa
Ấn Quang. Sau khi tốt nghiệp Đại Học Văn Khoa, ông xin đi du học Mỹ.
Ông Huỳnh Văn Lang, hiện ở Orange County, lúc đó là Tổng Giám Đốc
Viện Hối Đoái, cho biết năm 1961 có hai sinh viên Phật Giáo được Tổng Thống Ngô
Đình Diệm cho đặc cách đi du học không phải qua Hội Đồng Du Học, đó là Đại
đức Thích Trí Không (Trần Quang Thuận) và Thiền sư Nhất Hạnh.
Tôi biết Trần Quang Thuận được đi là nhờ ông Tôn Thất Hối, bạn
đồng liêu với ông Diệm giới thiệu. Sau này ông Hối là bố vợ của Trần Quan
Thuận. Thích Trí Không được đi du học Sri Lanka rồi sau qua Anh. Sau khi xuất,
Trần Quang Thuận làm việc cho CIA nhưng bị sa thải năm 1963 sau khi tổ chức vụ
thiêu sống Thích Quảng Đức bị bại lộ.
Thiền sư Nhất Hạnh được ông Tôn Thất Thiết, Chánh Văn Phòng của
ông Diệm giới thiệu. Thiền sư đã học về môn tôn
giáo đối chiếu (comparative religion) tại Princeton
University ở tiểu bang New Jersey, Hoa Kỳ, và tốt nghiệp
tiến sĩ triết học tại đây.
3.-
Trở thành Thiền Sư Đại Vọng Ngữ
Để tạo uy thế cho chính mình, năm 1964, Thượng Tọa Thích Trí Quang
đã mời Thiền sư Nhất Hạnh về nước để làm Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh mới
thành lập và giúp ông thống nhất Phật giáo. Nhưng Hòa Thượng Trí Thủ, lúc đó là
Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, đã bác bỏ, viện
lý do Nhất Hạnh không phải là tăng sĩ vì đã bị ông đuổi năm 1948. Ông
đòi đưa Thích Minh Châu từ Ấn Độ về. Cơ quan an ninh nói Thích Minh Châu là một
đảng viên đảng CSVN và đang hoạt động cho Hà Nội tại Ấn Độ với hồ sơ đầy đủ,
nhưng Việt Hóa Đạo nhất quyết xin đưa ông về và cam kết không cho ông hoại động
cho Cộng Sản nữa. Lâm vào thế kẹt, Thủ Tướng Nguyễn Khánh đã phê vào hồ sơ: “Cứ
cho về và theo dõi”!
Không được làm Viện trưởng Đại Học Vạn Hãnh, tháng 9 năm 1965 ông
đi lập Trường
Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội (School Of Youth For
Social Service), lúc đầu tại chùa Từ Nghiêm. Mục tiêu của trường được ghi rõ là
“Lớp
học giáo lý và các buổi hội thảo về chấm dứt cốt nhục tương tàn”,
tức tuyên truyền phải chiến với những câu hát như “Kẻ thù ta
đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai?...” Tại đây ông đã
gặp cô Fleurette Cao Ngọc Phượng, người Bến Tre, sinh năm 1938, và cô ta trở
thành “Sư Cô” của ông. Sau đó ông đi làm phản chiến.
Trong bài “Ngày em hai mươi tuổi” Thiền sư Nhất Hạnh có
ghi lại: “Tôi
rời đất nước năm 1966, vào tháng năm. Lúc đó chiến tranh Việt Nam đã đi tới mức
khủng khiếp Tôi nghĩ rằng mình phải ra đi để cất lên tiếng kêu gọi hòa bình...”
Ông đến Pháp, Cuối tháng 5 năm 1966, khi ông đang thuyết trình ở Pháp thì được
tổ chức Fellowship for Reconciliation và Cornell University ở New York, hai tổ
chức phản chiến của Mỹ, mời qua thăm Mỹ. Ngày 1.6.1966 ông đã được đưa ra trước
diễn đàn Quốc Hội Mỹ đọc một bản tuyên cáo nói
về lập trương 5 điểm của Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang gióng 5 điểm đòi hỏi của
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Từ đó ông bắt đầu xử
dụng vọng ngữ một cách trắng trợn để mô tả cuộc chiến của Mỹ và VNCH chống lại
Cộng Sản. Mọi người có thể tím thấy các lời vọng ngữ này tràn ngập trong cuốn “Vietnam,
Lotus in a Sea of Fire, a Buddist Proposal for Peace”
(Việt Nam, Hoa Sen trong Biển Lửa, một Đề Nghị Hòa Bình của Phật Giáo), trong
tuyên bố của Giáo Hội Ấn Quang tại Hội Nghị Thế Giới về Tôn Giáo và Hòa Bình
họp tại Kyoto từ 16 đến 22.10.1970, trong bài diễn văn về vụ Mỹ tàn sát tại Bến
Tre…
Sau vụ 911, ngày 25.9.2001 một nhóm phản chiến Mỹ đã đưa Thiền sư
Nhất Hạnh đến nói chuyện về sự tàn ác của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam tại nhà
thờ Riverside Church trước hàng ngàn cử tọa người Hoa Kỳ. Bài thuyết trình láo
phét của ông về vụ Mỹ dội bom xuống Bến Tre trước năm 1975 khiến 300.000 người
chết, đã làm nhiều người Việt phẫn nộ, biểu tình chống ông. Dân
số Bên Tre lúc đó chỉ có khoảng 80.000, nhưng ông dám nói Mỹ đã giết tại đây
tới 300.000 người! Khi biết rõ sự thật, ông không hề đính chánh
hay xin lỗi. Từ đó ông được gọi là Thiền
Sư Đại Vọng Ngữ. Kinh Pháp Cú, ở Phẩm Thế Gian, câu 176, có
nói: “Những
ai vi phạm đạo Nhất thừa, những ai ưa nói lời vọng ngữ, những ai không tin
tưởng đời sau, thì chẳng có điều ác nào họ không làm được.”
THAM
VỌNG CỦA THIỀN SƯ NHẤT HẠNH
Thiền
sư Nhất Hạnh là một cư sĩ, không phải là tăng sĩ
nên ông theo Pháp môn Tịnh độ, nhưng ông biến cải pháp môn này lại thành “Pháp
môn Tiếp Hiện”, thường được gọi là “Pháp
Môn Làng Mai”, áp dụng cho cả tăng sĩ lẫn cư sĩ. Trong Thông
Điệp đầu năm 2002 dưới đầu để “Phật giáo dân tộc -
Đạo Bụt hiện đại” ông nói rõ mục đích của Pháp môn Tiếp Hiện của
ông là: “tất cả các Chùa, Viện, Niệm Phật Đường và tư
gia thuộc môn phái thực hiện được những bước tiến sau đây trong đường hướng xây
dựng một nền Phật giáo dân tộc và một đạo Bụt hiện đại.”
Ông mơ tưởng đưa Phật giáo Việt Nam trở lại thời nhà Lý, chính quyền và giáo
quyền là một.
Phương pháp của ông là khởi đầu từ hỗn hợp giữa Yoga, Tài chi và
Pháp luân công để tiến tới Thiền định rồi Thanh tâm tịnh. Pháp môn này sẽ dần
dần thay thế các pháp môn khác ở trong và ngoài nước để biến
Phật giáo Việt Nam thành một tổ chức thống nhất.
Đây là phương pháp Mỹ cũng đang tìm cách áp dụng tại Trung Quốc để làm thay đổi
xã hội ở đó.
XÓA
BỎ GIÁO HỘI ẤN QUANG: SỨ MẠNG KHÔNH THÀNH!
Xóa bỏ Giáo Hội PGVNTN, thường đươc gọi là Phật Giáo Ấn Quang, ở
trong nước là chủ trương và kế hoạch của nhà cầm quyền CSVN. Thiền sư Nhất Hạnh
chỉ “tương kế tự kế” vì nó phù hợp với muc tiêu và chủ trương của ông. Điều
kiện: Nhà
cầm quyền cho phép Thiền sư Nhất Hạnh thiết lập Làng Mai Bát Nhã tại Lâm Đồng
với điều kiện ông thuyết phục được Hòa Thượng Quảng Độ và các chức sắc của
GHPGVNTN giải tán giáo hội này và sát nhập vào Giáo hội Phật Giáo Nhà Nước.
Ông hy vọng với hạt mầm gieo được ở Lâm Đồng, ông sẽ làm cho Pháp Môn Làng Mai
lan ra cả nước, 400 thành 800, 800 thành 1.600... Chúng tôi gọi đó là “Chiến
thuật vết dầu loang”.
1.-
Một kế hoạch chu đáo
Để chuẩn bị cho việc khai thác Thiền Sư Nhất Hạnh, nhà cầm quyền
CSVN đã cho Sư Cô Thích Đàm Lan và Thượng tọa Đức Nghi qua Làng Mai ở Pháp “thọ
giáo” với Thiền sư Nhất Hạnh, và mời Đoàn Thiền Sư Nhất Hạnh và Sư Cô Chân
Không về thăm Việt Nam.
Thượng Tọa Đức Nghi đã đến San Diego, nam California, thăm tu viện
Lộc Uyển của Thiền Sư Nhất Hạnh. Thượng tọa còn hứa sẽ
khôi phục lại trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội do Thiền sư Nhất Hạnh lập năm
1964 và dâng tu viện Bát Nhã ở Lâm Đồng cho Thiền Sư Nhất Hạnh. Tu
viện này đã được đổi tên thành tu viện Làng Mai Bát Nhã.
Ngày 7.7.2006, Ban Tôn Giáo Chính Phủ đã ban hành công văn số
525-TGCP-PG chấp thuận cho phép Làng Mai Bát Nhã tu học theo Pháp môn Làng Mai.
Thiền
sư Nhất Hạnh thăm và tặng hoa ĐT Võ Nguyên Giáp năm 2007
Với những sự “nới lỏng” như trên, Làng Mai tưởng mình đã “trúng
mối” nên giúp Thầy Đức Nghi phát triển Làng Mai Bát Nhã với hy vọng từ đó sẽ
phát triển “Pháp môn Làng Mai” ở trong nước. Tăng thân Làng Mai kêu gọi Phật tử
trong và ngoài nước giúp đỡ 2 tỉ 800 triệu để Thầy Đức Nghi đứng tên mua 8 mẫu
đất nhằm mở rộng cơ sở Làng Mai Bát Nhã, cấp cho Thầy Đức Nghi 12 tỷ 509 triệu
để xây dựng tăng xá, ni xá và các loại thiền đường, và 90 ngàn Mỹ kim để xây
dựng nhà dưỡng lão trên khuôn viên tu viện Bát Nhã, v.v. Thấy “thời cơ đã đến”,
Thiền sư Nhất Hạnh quyết định về Việt Nam thực hiện “diệu kế” của mình
2.-
Thi hành “sứ mạng” thất bại
Đoàn Thiền sư Nhất Mạnh đã được nhà cầm quyền cho về thăm Việt Nam
hai lần để thi hành “sứ mạng”: Lần thứ nhất vào đầu năm 2005 dưới
hình thức một Đoàn Múa Lân đi trình diễn để hấp
dẫn Phật tử. Ngày 11.1.2005, Ông Phạm Thế Doanh, Phó Trưởng Ban Tôn Giáo Chính
Phủ khẳng định: “Giáo Hội Phật Giáo sẽ tạo mọi điều kiện, cũng
như đảm bảo an ninh cho đoàn trong thời gian ở Việt Nam.”
Trong chuyến đi này, Thiền sư Nhất Hạnh đã thất bại trong việc xin
tiếp kiến Hoà Thượng Quảng Độ và gặp Thượng Toạ Tuệ Sỹ, nhưng ông đã thuyết
phục được các tăng sĩ và Phật tử của hai giáo hội ở Huế cùng “bồ tát” chung,
với hy vọng sẽ dần dần tiến tới sáp nhập. Tuy nhiên, khi ông đi rồi, mỗi bên ai
về nhà nấy.
Thất bại trong lần thứ nhất. Đoàn trở lại Việt Nam đầu năm 2007
dưới hình thức “Trai Đoàn Giải Oan”.
Thiền sư Nhất Hạnh hy vọng rằng với danh nghĩa “cầu
nguyện và giải trừ oan khổ cho tất cả những ai đã từng gánh chịu hậu quả khắc
nghiệt của cuộc chiến tranh...”, các tăng sĩ và Phật tử
thuộc hai giáo hội sẽ cùng đến và ông sẽ CỘT cả hai bên lại với nhau. Nhưng phe
GHPGVNTN cũng không đến.
3.-
Làng Mai bị trắng tay.
Vì Thiền sư Nhất Hạnh không thực hiện được sứ mạng giao phó, ngày
29.10.2008 ông Nguyễn Thế Doanh, Trưởng Ban Tôn Giáo Chính Phủ đã công bố văn
thư số 1329/TGCP-PG lên án các hoạt động của các tăng thân Làng Mai:
“Ba
lần về Việt Nam, tăng thân Làng Mai (Nước Pháp) đã thực hiện một số việc như:
tấn phong giáo phẩm không thông qua GHPGVN, đề cập sai lệch những vấn đề chính
trị của đất nước, đưa lên internet (Website Làng Mai) một số thông tin sai sự
thực và thực tế ở Việt Nam. Những việc làm ấy là vi phạm pháp luật Việt Nam.”
Ngày 13.11.2008, công an xã Đambri, Lâm Đồng, đã áp dụng biện pháp
cưởng hành để trục xuất 400 đệ tử xuất gia và tăng sinh tu học theo pháp môn
Làng Mai ra khỏi tu viện Bát Nhã. Trong số này, có 40 ni cô đến từ Huế và một
số tu sĩ từ nước ngoài vào.
NHẤT
HẠNH TRỞ VỀ VIỆT NAM LÀM GÌ?
Mục tiêu chuyến đi Việt Nam lần này của Thiền sư Nhất Hạnh đươc
nói là về thăm Tổ đình Từ Hiếu, nhưng nhiều người tin rằng mục tiêu của ông là
thử tìm xem có con đường nào khác để đưa Pháp Môn Làng Mai xâm nhập vào Việt
Nam trước khi ông từ bỏ cuộc đời này. Đó là ước vọng của ông. Nhưng đa số không
tin ông có thể làm được chuyện đó vì cả nhà cấm quyền lẫn các chức sắc GHVNTN
đều biết rất rõ mục tiêu và chiến thuật của ông.
Ngoài ra, có nhiều dấu hiệu cho thấy người Mỹ đã nhận ra rằng
Thiền sư Nhất Hạnh khó hoàn thành được sứ mạng trước khi qua đời, vì mục tiêu
và chiến thuật của ông đã bị bại lộ. Trong thập niên gần đây, một số tăng sĩ
Phật Giáo Việt Nam khác đã được giúp đỡ để tiến hành kế hoạch mà họ muốn ông
làm trước đây. Lá bài Nhất Hạnh không còn là lá bài duy nhất nữa.
Ngày 7.9.2017
Lữ Giang
Virus-free. www.avast.com
|
__._,_.___