Thành quả hỗ tương: Ấn Quang-Cộng sản
Cựu Thẩm Phán Nguyễn Kim Khánh
Cựu Thẩm Phán Nguyễn Kim Khánh
Người ta có thể tóm lược rất nhiều thành
quả trong cuốn sách của cộng sản Việt Nam nhận cuộc đấu tranh của phật giáo từ
1963 làm thành quả của “đảng ta”. Ví dụ, cuốn “Phong
Trào Tranh Đấu Chống mỹ Của Giáo Chức, Học Sinh, Sinh Viên
Sài Gòn” của Hồ Hữu Nhật do nhà xuất bản “thành phố Hồ Chí Minh”
phát hành năm 1984:
“Dưới trào Ngô Đình Diệm:
“Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất có
hậu thuẫn vững chắc của nhiều tổ chức: Gia đình Phật tử, Sinh viên Phật tử, Học
sinh Phật tử, Thanh niên Phật tử. Năm 1962 gia đình Phật tử tập hợp được 200
trăm ngàn người, năm 1964 có 400 ngàn . Đảng đã có cơ sở trong các tổ chức đó. Các chùa, trường Bồ Đề, Viện Hóa Đạo, trở thành trung
tâm đấu tranh và phát xuất những cuộc mít tinh biểu tình chống ngụy quyền (trang 88-89)”.
“Sau khi Diệm đổ:
“Cuộc đấu tranh chính trị sôi sục và quyền chủ
động phần nào trong tay Phật giáo, nhưng đảng ta đã chỉ đạo cơ sở kịp thời tham
gia hỗ trợ, nâng khí thế phong trào lên với qui mô toàn quốc (trang 98)”.
“Ngoài ra ta cũng nắm được ban chấp hành
Tổng Hội Sinh Viên Vạn Hạnh (nhiệm khóa 1966-1967). Chủ tịch
Hoàng Tiến Dũng, Tổng thư ký Phan Long Côn, một trung tâm công khai, có uy tín
trong sinh viên Phật tử và đồng bào Phật tử cho đến ngày miền Nam hoàn toàn
giải phóng.
Đối với tổ chức cấp cao nhất của Phật giáo,
đảng ta đã mời Hòa thượng Thích Thiện Hoa ra tranh cử và Hòa thượng
đã đắc cử Viện trưởng Viện Hóa Đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (trang 106).
HT Thích Thiện Hoa
“Nhân Lễ Phật đản 5.5.1966, tại Viện Hóa Đạo, học sinh, sinh viên cắm một băng giấy
trên chiếc xe Mỹ bị họ đốt cháy: “Đây, kết quả 13 năm viện trợ Mỹ !”, nhiều tấm
bảng dựng trước Viện Hóa Đạo vẽ hình châm biếm Tổng thống Mỹ Giôn Xơn, khẩu
hiệu chống khủng bố trong cuộc đấu tranh ngày 20.5.1966: “Mạng người Việt Nam
không thể đổi bằng đô la và bom đạn Mỹ - Rút ngay quân đàn áp ra khỏi Đà Nẵng
…”.
Bên ngoài, từ ngày 3 đến ngày 10.6.1966 , Phong trào Bàn thờ phật xuống đường, gây cản trở giao thông, làm rối sào
huyệt cuối cùng của địch, 10 xe Mỹ bị đốt trong đợt này (trang 130)”.
Đó là tại Sài Gòn do chính cộng sản Việt
Nam khai ra. Sài Gòn là trung tâm quyền lực và quốc tế của Việt Nam Cộng Hòa,
ảnh hưởng của đạo Phật không nhiều, Việt cộng công khai xâm nhập hàng ngũ Phật
giáo, còn tại các tỉnh miền Trung, nhất là “Liên khu 5” cũ của Việt Minh, Việt
cộng làm mưa làm gió đến cỡ nào trong các tổ chứ Phật giáo.
Sự giống nhau ở phương cách đấu tranh, sự
lẫn lộn giữa thành quả đạt được của Việt cộng và phe phái đội lốt Phật giáo đã
khiến nhiều người nghĩ Phật giáo là Việt cộng, coi Thích Trí Quang như một cán
bộ cao cấp của Việt cộng. Đức Quốc trưởng Bảo Đại đã viết trong cuốn: Con rồng
Việt Nam:
“Vậy thì ai đã xúi dục họ gây loạn, ai ? Họ ở
đâu tới ? Làm sao mà biết được nếu họ từ Hà Nội vào hay từ Bắc Kinh tới ?” (trang 9).
Họ là ai ? Vì họ không nói ra, tôi chỉ còn
cách suy đoán và nghĩ rằng các chính khách tăng lữ muốn xoay chiều lịch sử Việt
Nam, mong cho Việt Nam độc đạo, độc tôn, tăng lữ có vai trò lãnh đạo và thống
trị như ở Iran. Nếu quả đúng như vậy, tôi báo động để mọi người Việt Nam phải
cương quyết chống lại như đã chống lại chủ nghĩa cộng sản. Cộng sản Việt Nam
rồi phải sập, chúng ta phải chuẩn bị đương đầu với những vấn đề hóc búa của quê
hương ngày nay.
Tôi nghĩ rằng, những tăng lữ chính khách
của Phật giáo chưa bỏ tham vọng muốn đạo mình trở thành độc tôn bằng sự đồng
hóa với quốc gia. Mới đây, tôi đọc lời phát biểu của “Hòa thượng” Thích Huyền
Quang trong tang lễ của “Hòa thượng” Thích Đôn Hậu, đoạn văn này như sau:
“Cơ sở của giáo hội (Phật giáo) là nông thôn,
thành thị, cao nguyên và hải đảo”.
Đây là đối tượng của quốc gia chứ không
không phải của đạo giáo. Đạo giáo muốn nhập nhằng đồng hóa với quốc gia bằng
cách coi quốc gia như giáo hội của mình theo kiểu mẫu của Iran. Ngày nào đó,
nếu điều này trở thành sự thực thì thật là điều bất hạnh cho dân tộc Việt Nam
vậy.
Tôi
xét xử
Có một tòa án vượt lên trên tất cả các tòa án
của xã hội loài người, là tòa án lương tâm. Tòa án ấy, nằm trong tận đáy lòng
của mỗi người và mỗi người tự làm quan tòa cho chính mình, để xét xử những
việc đã và đang xẩy ra mà mình biết được. Ý thức về sự công bằng, lòng kính
trọng lẽ phải là căn bản của mọi công lý. Công lý ấy vượt thời gian, vượt không
gian, không tùy thuộc vào chủng tộc hoặc văn hóa xã hội: Công lý bất diệt nội
tại trong mỗi con người.
Người ta đã kết tội Tổng thống Ngô Đình
Diệm những cái “tội” như: “độc tài gia đình trị, tội kỳ thì và đàn áp Phật
giáo” và sau cùng gần như bất lực, họ cố tìm cho ra một vài khuyết điểm của đời
sống cá nhân. Có một cái “tội”, mà theo tôi là “tội” chính mà họ không nói ra:
“Ngô Đình Diệm là người Công Giáo tốt, xử Ngô Đình Diệm là xử cả Giáo hội Công
Giáo”.
Cụ Đoàn Thêm viết:
“Không một văn kiện hay một huấn thị nào ấn định
khuyến cáo các nghi thức và cử chỉ với người lãnh đạo; tôi chỉ thấy ông ra lệnh
không được gọi ông bằng Cụ. Ông không hề ngỏ ý bắt đứng dậy chào ông trước khi
coi phim hay nghe hát. Không bao giờ ông đòi hỏi tổ chức Thánh Bổn Mạng hay
sáng tác cho ông bản nhạc suy tôn”.
Xem thế, những việc điếu đóm, suy tôn…
ông Diệm không phải do sự “kiêu căng, hợm hĩnh” của ông mà do bọn vô liêm sĩ
nịnh bợ. Bọn ấy chính là bọn phản lại ông Diệm sau này.
Về nếp sống của Tổng thống Ngô Đình Diệm:
Sĩ quan Lê Công Hoàn, tùy viên của ông Diệm
khi bị quân “cách mạng” bắt đi, bị hỏi rằng: “Có
nhìn thấy đàn bà nào vào phòng riêng của ông Diệm ? Tổng thống Diệm có giao du
với bà Nhu hay không ?”.
Sĩ quan Lê Công Hoàn trả lời:
“Tôi quả quyết không bao giờ có chuyện như
vậy. Nếu có mà tôi bảo là không, tôi xin chịu mất cái đầu.
“Tổng thống Ngô Đình Diệm ở trong một căn
phòng riêng, ngủ trên tấm đi-văng gỗ. Ông già Ẩn tối chăng màn, sớm tháo gỡ.
Tổng thống ăn riêng, đầu bếp của ông rất nhàn hạ: sáng ông điểm tâm bằng cháo
trắng với dưa chua hoặc cá thu kho mặn, trưa thường dùng trái cây hoặc rau
sà-lát trộn dấm hoặc súp-lơ; bắp cải luộc. Bữa ăn chính của ông là bữa tối. Thứ
cơm ông dùng là cơm gạo lức đỏ… ông ăn như một người trung lưu của xứ Quảng
Bình hay xứ Huế. Ông không uống được rượu (13)”.
Đọc những lời chứng trên, người ta nghĩ đời
sống riêng tư của Tổng thống Ngô Đình Diệm quá đơn sơ, ông xứng đáng là đệ tử
của Thánh Gandhi.
Những kẻ thù nghịch với Tổng Thống Ngô Đình
Diệm đã thất bại không thể tìm ra một lỗi lầm nhỏ nào trong cuộc đời tư khiêm
tốn và nghèo khó của ông.
Bằng những chứng cớ trình bày ở trên:
- Không ai tìm thấy một tội phạm hình sự nào
trong suốt cuộc đời của ông Diệm.
- Không ai tìm thấy những điều đáng chê trách
trong cuộc đời của ông Diệm.
- Ông Diệm tận tụy phục vụ quốc gia, đặt lợi
ích của đất nước lên trên mọi sự.
Bởi đó,
- Tổng thống Ngô Đình Diệm rất xứng đáng được
tôn vinh là nhà ái quốc.
- Tổng thống Ngô Đình Diệm xứng đáng được xem
là người công chính.
Thế mà,
Những ai đã cố tình giết chết ông
Những ai nhẩy múa trên xác chết của ông
Những kẻ đã cố tình bôi bẩn cuộc đời ông
Những kẻ ấy đều phải bị phán xét theo lẽ công
bằng. Đó là công lý ngàn đời, dù Đông hay Tây, dù tín ngưỡng nhà Phật hay nhà
Chúa, nhân loại đều có mẫu số chung về thiện-ác.
Cựu Thẩm Phán Thiết Nguyễn Kim Khánh
Người
đánh máy: Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
========
Ông Nguyễn Kim Khánh nhận xét rất đúng
Nhìn lại lịch sử từ khi Hoàng đế Bảo Đại mời ông Ngô Đình Diệm về
làm Thủ tướng , sau đó được dân bầu làm Tổng thống --- Thời gian 1954 đến 1963
là thời kỳ Phật Giáo phát triển huy hoàng nhất trong 60 năm qua .
TT Diệm đã bổ nhiệm và gắn lon tướng ----từ chuẩn tướng lên đại tướng -- cho hơn hai mươi tướng lãnh .- Tất cả những tướng này đều là người Phật Tử --và đều được TT yêu thương , bổ nhiệm vào những chức vụ quan trọng chính phủ và quân đội .
TT Diệm đã bổ nhiệm và gắn lon tướng ----từ chuẩn tướng lên đại tướng -- cho hơn hai mươi tướng lãnh .- Tất cả những tướng này đều là người Phật Tử --và đều được TT yêu thương , bổ nhiệm vào những chức vụ quan trọng chính phủ và quân đội .
TT Diệm không thăng cấp tướng lãnh nào cho người
Công Giáo cả .
Cho nên khi Tướng Dương
Văn Minh , Tôn Thất Đính, Trần Văn Đôn..v..v..phản bội lại thầy , ( đồng
thời cũng là ân nhân ), của mình... thi TT Diệm chắc chắn phải chết
Nếu TT Diệm sống lại và nhìn thấy Hô Chi Minh ngôi trên bàn tho`
trong cac chùa của Phật Giáo nhu ngày hôm nay dưới chế độ CS --- thì
có lẽ TT Diệm là người đau lòng nhất .
PHẬT GIÁO TIẾC THƯƠNG VÀ TRI ÂN TT NGÔ ĐÌNH DIỆM
. Môt ân nhân cao quy cua PG .
------------
NGUYEN KIM KHANH
Trong
cuốn "Our Vietnam Nightmare" bà
Maguerite Higgins cho biết: "1275 ngôi chùa
được xây cất, 1295 ngôi chùa được trùng tu dưới trào Ngô Đình Diệm".
- Theo cụ Đoàn Thêm và
cụ Mai Thọ Truyền thì trước khi Tổng thống Ngô Đình Diệm cầm quyền, Nam Việt
Nam chỉ có 2206 ngôi chùa, đến năm 1963 số chùa tăng lên thành 4766 ngôi. Nhiều
ngôi chùa được quốc gia trợ cấp tiền bạc để xây cất.
- Về các sở văn hóa, trước khi Tổng thống
Ngô Đình Diệm cầm quyền, đạo Phật chưa mở trường học. Dưới chế độ Tổng thống
Ngô Đình Diệm, hệ thống Trung tiểu học Bồ Đề ra đời. Đỗ
Mậu cho biết năm 1970 Phật giáo có 160 trường trung tiểu học trong cả nước. Đa
số trường này được xây cất trước ngày 1.11.1963.
Đọc những thành quả trên, liệu người ta có dám kết luận Tổng thống Ngô Đình Diệm và chế độ của ông đã "kỳ thị Phật giáo" không ?
Xét chung trên bình diện chính sách quốc gia cũng như thành quả của đạo Phật trong chín năm cầm quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm, người ta không tìm ra được bằng cớ nào chứng tỏ Tổng thống Ngô Đình Diệm và chính quyền của ông kỳ thị đạo Phật, kỳ thị giáo hội Phật giáo, kỳ thị tín đồ đạo Phật.
On Sunday, April 12, 2015 3:42 AM, " vneagle_11@yahoo.com wrote:
Đệ Nhất Cộng Hòa có "kỳ thị Phật giáo" không?
Phan Thiết Nguyễn Kim Khánh
Giáo lý nhà Phật rao giảng thập nhị nhân
duyên, để đi đến kết luận triệt để là bài trừ sắc tướng. Đạo Phật cũng như Đạo
Thiên Chúa cao khiết mênh mông, bao trùm toàn thể nhân loại, là gia sản chung
của toàn thể loài người, không thể đóng khuôn đạo giáo trong một văn bản của
một quốc gia. Các nhà lãnh đạo của đạo Phật đã mắc vào vòng sắc tướng và họ đã
chịu hậu quả như thế này: Cộng Sản Bắc Việt cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hòa ngày
30.4.1975, chúng tuyên bố hủy bỏ tất cả luật lệ của Việt Nam Cộng Hòa. Giáo hội
Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập do sắc lệnh 158/SL/CP, ngày
14.5.1964. Sắc lệnh ấy, cũng cũng chịu chung số phận với mọi văn bản lập pháp,
lập quy của Việt
Nam Cộng Hòa.
Kỳ thị Phật giáo trong chính sách và xã hội:
Trước kia, Phật giáo Thống nhất đã đòi:
Một trong năm nguyện vọng của Phật giáo đồ" là yêu cầu chế độ Ngô Đình
Diệm để cho tăng ni được tự do truyền đạo và hành đạo". Có lẽ trong trí
các vị này nghĩ rằng Phật giáo bị kỳ thị nên tăng ni không được tự do hành đạo
và tự do truyền đạo. Nhưng họ lại không đưa ra được bằng chứng nào cụ thể chứng
minh chính quyền Ngô Đình Diệm gây ra những khó khăn hoặc ngăn cản việc truyền
đạo hay hành đạo.
Ngược lại người ta có rất nhiều bằng
chứng, chứng minh đạo Phật đã phục hưng rất mạnh trong chín năm cầm quyền của
Tổng thống Ngô Đình Diệm. Trước nhất, là số chùa được xây cất.
- Trong cuốn "Our Vietnam Nightmare" bà
Maguerite Higgins cho biết:"1275 ngôi chùa được xây cất, 1295 ngôi
chùa được trùng tu dưới trào Ngô Đình Diệm".
- Theo cụ Đoàn Thêm và cụ Mai Thọ Truyền thì
trước khi Tổng thống Ngô Đình Diệm cầm quyền, Nam Việt Nam chỉ có 2206 ngôi
chùa, đến năm 1963 số chùa tăng lên thành 4766 ngôi. Nhiều ngôi chùa được quốc
gia trợ cấp tiền bạc để xây cất.
- Về các sở văn hóa, trước khi Tổng thống
Ngô Đình Diệm cầm quyền, đạo Phật chưa mở trường học. Dưới chế độ Tổng thống
Ngô Đình Diệm, hệ thống Trung tiểu học Bồ Đề ra đời. Đỗ Mậu cho biết năm 1970 Phật
giáo có 160 trường trung tiểu học trong cả nước. Đa số trường này được xây cất
trước ngày 1.11.1963.
Đọc những thành quả trên, liệu người ta
có dám kết luận Tổng thống Ngô Đình Diệm và chế độ của ông đã "kỳ thị Phật
giáo" không ?
Xét chung trên bình diện chính sách quốc
gia cũng như thành quả của đạo Phật trong chín năm cầm quyền của Tổng thống Ngô
Đình Diệm, người ta không tìm ra được bằng cớ nào chứng tỏ Tổng thống Ngô Đình
Diệm và chính quyền của ông kỳ thị đạo Phật, kỳ thị giáo hội Phật giáo, kỳ thị
tín đồ đạo Phật.
Khi tôi đưa ra một vài vấn đề để viết
bảng so sánh dưới đây, tôi không đề cao Công giáo hay miệt thị Phật giáo. Tạm
thời tôi chỉ nói về:
Yếu tính đạo giáo
- Đạo Phật
không hẳn là một tôn giáo, vì tôn giáo phải có Thần Linh.
Đức Phật không phải là Thần Linh. Ngài
chỉ là bậc Đại giác, bậc Chánh Đẳng Chánh giác, nói theo chữ Phạn là
A-niệu-da-la Tam-niệu Tam bồ đề (Amuttara Samyak Samboddhi). Các đệ tử theo
ngài đều là tỳ kheo như nhau, không đẳng cấp. Đã không không hẳn là tôn giáo,
thì cũng không hẳn phải có giáo hội mà chỉ có những tu hội quy tụ những người
đồng một chí hướng trong một tu viện hay một ngôi chùa.
- Đạo Công giáo rõ ràng là
một Tôn giáo vì có Thần Linh Tối Cao là Thiên Chúa, và có hàng giáo phẩm thống thuộc từ
cao xuống thấp tỏa rộng sinh hoạt trong cộng đồng tín đồ. Chúa Jêsu đã thiết
lập giáo hội, đặt ông Phê-rô làm đầu chăn "các chiên mẹ và chiên
con". Chúa như cây nho, tín đồ là cành nho. Thánh Phao-lô gọi giáo hội là
là "thân thể mầu nhiệm" của Chúa. Giáo hội trở thành keo sơn liên kết
người sống và kẻ chết: Giáo hội đang chiến đấu là giáo hội hữu hình, gồm toàn
dân Thiên Chúa ở trần gian, giáo hội khải hoàn là toàn thể dân Chúa trên Thiên
đàng, giáo hội đau khổ là toàn thể dân Chúa đang chịu thanh luyện sau khi chết,
để nhập vào giáo hội khải hoàn.
- Hệ quả: Chữ Giáo Hội trong đạo Phật là
mượn của Đạo Thiên Chúa: Là Ecclesia, Église, Church, theo Thánh Kinh
(Mat.16,19), nhưng chỉ mượn được "sắc tướng" thôi, chứ bản chất thì
không thể mượn được. Vì thế, tín đồ Công giáo đoàn kết keo
sơn thành một cộng đồng rõ nét, và tuân lệnh chủ chiên của mình là hàng giáo
phẩm trong vấn đề đức tin. Đời sống giáo hội thông hiệp với tín đồ bằng lời
Chúa do giáo sĩ giảng dạy và nuôi dưỡng tinh thần tín đồ bằng các phép Bí tích.
Bí tích Thánh thể trung tâm của đời sống Công giáo. Điều này, đạo Phật không thể
có được, vì trong đạo Phật ai tu nấy chứng. Trong Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng ai
cũng phải tự mình mà đạt tới. Chính đức Phật đã dạy:
"Ta
là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành" và "Chúng sanh hãy tự
đốt đuốc tìm đường mà đi".
Tuy gọi là "quy y Tam Bảo",
nhưng tín đồ đạo Phật hoàn toàn tự do, không lệ thuộc vào ai. Đã không lệ thuộc
ai, thì sự giao tế trong một cộng đồng chỉ còn là giao tế xã hội hàng ngang.
Kết quả sự tôn kính dành cho kẻ truyền pháp (tương đương với giáo sĩ truyền
giáo) giảm. Những cái giảm kia xẩy ra ngay trong cộng đồng đạo Phật tỏa rộng ra
toàn xã hội, đưa đến Ngộ Nhận là "kỳ thị Phật giáo".
- Về những người làm việc tôn giáo
- Đạo Phật: Các tu sĩ đồng hạng đều là tỳ
kheo, tức là những người sống theo lối tu hành của Đức Phật. Muốn làm tỳ kheo
chỉ cần tâm nguyện xuất gia là đủ. Xuất gia rồi, thì giữ giới luật là thành tỳ
kheo. Không bắt buộc trình độ văn hóa hoặc là phải tu học bao lâu. Không có các
trường chuyên nghiệp bắt buộc đào tạo tỳ kheo theo một học trình mở rộng cả đạo
lẫn đời. Thường thì các vị sư cụ (đại lão Hòa thượng, Thượng tọa) thu nhận một
số đệ tử rồi tự các ngài huấn luyện lấy, xong cho thụ giới thành tỳ kheo. Bởi
đó, trình độ văn hóa tổng quát của các vị tỳ kheo thường yếu kém, nhiều
vị ngay sự hiểu biết về Phật pháp cũng rất lờ mờ, pha trộn tín ngưỡng dân gian,
ngoại đạo. Ấy là chưa nói tới một số kẻ lợi dụng như: họ nguyên chỉ là thầy
cúng của "đạo" dân gian, bỗng chốc mặc áo tỳ kheo nhập hàng tu sĩ của
đạo Phật.
- Đạo Công giáo: Người giáo sĩ Thiên Chúa
dù là giáo sĩ dòng hay giáo sĩ triều (thuộc mỗi địa phận) được đào tạo trong
các trường chuyên nghiệp, theo học một học trình Quốc Tế là bảy năm, sau khi
tốt nghiệp bậc trung học hay "phổ thông". Ở Đại Chủng Viện, họ được
học đủ các môn học về đạo và đời, học về phương pháp truyền giáo, và học cả về
các tôc giáo khác… Đại Chúng Viện trang bị cho họ đủ khả năng trở thành những
"cán bộ" tôn giáo xuất sắc. Nhiều người trong số họ uyên bác và nói
chung đều có học thức.
- Hệ quả: Xã hội Việt Nam trọng kẻ sĩ,
những kẻ có học thức thường được kính trọng. Các nhà sư nhiều người xuất thân
từ thầy cúng, hoặc là đệ tử của các sư cụ khả năng yếu kém, thì sẽ không đủ uy
tín lãnh đạo và không tạo được sự kính trọng của người khác. Điều này, đem so
sánh với giáo sĩ Công giáo sẽ tạo ra sự ngộ nhận là "kỳ thị Phật
giáo".
Trước năm 1955, đạo Phật ở Việt Nam chỉ
là những "tập đoàn" rời rạc, quy tụ chung quanh một ngôi chùa hay một
tu viện, lấy việc tu niệm làm chính. Các "giáo hội" Tăng già, Thiền
tịnh đạo tràng, Tăng sĩ Theravada, Tăng già nguyên thủy… giữ nguyên bản
sắc của mình giống như dòng tu riêng biệt, không lệ thuộc một "giáo
hội" trung tâm như Công giáo. Các vị tỳ kheo tu hành thuần túy không màng
tới chuyện đời, không lưu tâm tới vật chất. Những dòng tu hoằng dương đạo pháp,
không lệ thuộc một giáo quyền nào cả. Ở thôn quê có các ngôi chùa làng. Chùa
làng là công sức và của cải của dân làng chung lưng mà dựng nên, không thuộc
tập đoàn Phật giáo nào. Khi đã có chùa rồi, thì hội đồng kỳ mục tự tìm kiếm lấy
sư để mời về trụ trì, và dân làng cũng có quyền trục xuất vị sư ra khỏi chùa,
nếu ông ta phạm giới.
Từ
năm 1955, do cố gắng vượt bực về tài chánh, do chính quyền giúp đỡ, Tổng giáo
hội Phật giáo Việt Nam đã có các hoạt động xã hội và từ thiện: hệ thống trung
tiểu học Bồ Đề ra đời, mà trước đó không có.
Đồng hóa đạo Phật với dân tộc:
Chắc chắn dân tộc Việt Nam đã có một đạo giáo
khác hẳn với đạo Phật. Đạo ấy, là việc thờ cúng tổ tiên và trọng thánh thần.
Việc thờ cúng tổ tiên minh thị chấp nhận như chân lý của dân tộc là linh hồn
bất diệt. Vì linh hồn bất diệt cho nên mới có việc thờ cúng người chết, xem
người chết như còn hiện diện và vẫn tác động vào các sinh hoạt của người sống.
Trong khi đó, thì giáo lý căn bản làm nên Phật
pháp của đạo Phật là thuyết luân hồi, phủ nhận linh hồn hằng sống. Đức Phật
không dạy rõ, nếu linh hồn không bất diệt thì cái gì sẽ làm cho các pháp (con
người cũng là một pháp) được tái sinh vào các cảnh giới trước khi chấm dứt sinh
tử thoát khỏi luân hồi mà vào Niết Bàn ???
Các nhà Phật học đã sáng chế ra duy thức
học. Cái thức cuối cùng là A-lại-da thức, tiếng Việt dịch là Tâm thức, tức là
cái thức "máy móc" tạo thành cái nghiệp theo luân hồi. Dù
sao thì thuyết luân hồi cũng trái hẳn với tín ngưỡng của dân tộc là lòng tin
vào linh hồn bất diệt qua việc thờ cúng người chết.
Chính vì thế, nên cho dù đạo Phật đã vào
nước Việt sớm hơn đạo Thiên Chúa, nhưng mỗi ngày càng xa rời với niềm tin của
Đạo Việt tin vào linh hồn hằng sống; đến khi thấy con số tín hữu Công giáo tăng
lên vào thời Đệ Nhất Cộng Hòa, thì các tăng lữ đạo Phật vì không biết làm gì
hơn, nên đã lên án chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm là "kỳ thị Phật
giáo", là bất công và gian trá.
Nhưng đánh thẳng vào Công giáo không
được, vì phạm tới tín ngưỡng của người khác, được xem là tội mọi rợ, bị cả thế
giới lên án, vì đó là nhân quyền căn bản và thiêng liêng nhất của con người.
Ngay cả cộng sản bài trừ tôn giáo triệt để, nhưng cũng không dám công khai xúc
phạm thẳng tới tôn giáo, họ phải nhờ cái cầu "giai cấp". Ở Việt Nam
những người thù nghịch Thiên Chúa Giáo đánh Công giáo bằng cách chụp cho Công
giáo một cái mặt nạ, một cái mũ. Mặt nạ ấy, là Cần Lao, nhà Ngô và chủ nghĩa Thực dân
Pháp. Đọc những lời lên án Công giáo đầy rẫy ta thấy rõ "Thực dân, Cần
Lao, nhà Ngô chỉ là cái diện để những người thù nghịch đánh vào Công giáo,
không những Công giáo Việt Nam mà cả Công giáo hoàn cầu, là Tòa Thánh La Mã.
Nghiên cứu về mưu kế, sách lược này được
sách "Tam thập lục kế" gọi là "Thanh Đông kích Tây hay
dương Đông kích Tây". Ở đây không phải là nhà Ngô hay thực dân, mà chính
là Đạo Thiên Chúa vậy.
Trở lại cuộc đấu tranh của đạo Phật vào
năm 1963. Đa số các tông phái của đạo Phật chỉ lo tu thân, học Phật, nhiều tông
phái không muốn lao thân vào cuộc đấu tranh lật đổ "nhà Ngô". Nhiều
vị tỳ kheo đức độ nhìn nhận Tổng thống Ngô Đình Diệm là người có công giúp cho
các đạo giáo phục hưng và phát triển ở miền Nam, trong đó có đạo Phật. Nếu cứ
để tình trạng ấy thì các nhà sư chính khách không thể thực hiện được mưu đồ của
mình, mà việc trước mắt là đoàn kết các tông phái rời rạc trong cùng một đạo
thu về một mối. Họ đã phát động cuộc đấu tranh: Tổng thống Ngô Đình Diệm trở
thành thứ "oan dương" cho họ đổ lên đầu những tội lỗi tưởng tượng.
Kẻ làm chính trị được phép sử dụng những
thủ đoạn, được quyền dùng những giả diện để chiếm mục tiêu, nhưng phải thành
thật với chính mình, nếu không thì chết. Hứa Du hỏi Tào Tháo về quân lương. Tào
Tháo làm mặt bảnh nói quanh, nhưng trong bụng thì lo lắm vì quân hết lương rồi.
Sau phải thưa thiệt để Hứa Du hiến kế.
Những kẻ nhận phần trăm dân số đạo Phật ở
Việt Nam đã vẽ ra một tương lai tươi sáng cho "đạo pháp và dân tộc"
bằng không tưởng, rồi quyết tâm hạ bệ "nhà Ngô". Đến khi "nhà
Ngô" đổ rồi, thì đạo pháp trở thành mạt pháp, còn dân tộc thì điêu linh
khốn cùng tới tận đất đen. Các tay chính khách đạo Phật từng ngụy trang thành
tăng sĩ chính khách, đã đồng hóa đạo Phật với dân tộc, để nhận cái số đông quần
chúng làm quần chúng của mình theo cái cách thức của những kẻ làm chính trị.
Công thức "đạo pháp và dân tộc" không những trái với lịch sử mà còn
tỏ ra là gian dối. Nay họ vẫn chưa từ bỏ tham vọng, dù thực chất của họ chẳng
có gì. Những ai có lòng với đất nước Việt Nam không nên ngại ngùng gì mà phải
đưa vấn đề ra trước ánh sáng, để quốc dân biết mà tránh sau này.
Phan
Thiết Nguyễn Kim
Khánh
__._,_.___
No comments:
Post a Comment