From: BUSH NGUYEN <
Sent: Thursday, April 28, 2016 10:36 AM
Subject: Bài Phản Biện Của GS Dương Ngọc Dũng Về Nhóm Giao Điểm
Sent: Thursday, April 28, 2016 10:36 AM
Subject: Bài Phản Biện Của GS Dương Ngọc Dũng Về Nhóm Giao Điểm
Chuyển
Cho Bọn Giao Điểm
BN
Bài Phản Biện Của GS Dương Ngọc
Dũng Về Nhóm Giao Điểm
Kính
Làng NET:
Kính
giới thiệu Làng NET loạt bài nhận định của GS Dương Ngọc Dũng về học thuật Phật Giáo của nhóm Giao Điểm. Những ai chưa biết gì về nhóm GĐ thì nên đọc để biết. Ai đã biết mà không tường tận về nhóm nầy cũng nên đọc kỹ lần nữa để biết khả năng của nhóm Phật tử tự cho là trí thức khoa bảng, "hiểu" đạo Phật là đạo hiền hòa, từ bi...mà lại thường xuyên lên giọng chửi bới Thiên Chúa Giáo, đặc biệt Công Giáo và ngay cả Giáo Hoàng. Loạt bài viết rất hay cả hình thức lẫn nội dung vơi kiến thức hiếm thấy của một nhà giáo trong
vai nhận
xét phê bình, khiến càng đọc càng thấy thích thú vì biết thêm được rất nhiều chuyện về nhóm GĐ và ngoài lề.
Francis
Dương kính
giới thiệu
Nhận định về học thuật Phật Giáo của nhóm Giao Điểm
Nhân dịp đọc cuốn Đối Thoại Với Giáo Hoàng Phaolô II do
nhóm Giao Điểm biên soạn và xuất bản (1995, Hoa Kỳ), tôi cảm thấy cần phải viết
để phê phán tất cả những sai lầm nghiêm trọng đầy rẫy trong một tác phẩm đối thoại
với Đức Giáo Hoàng được tiến hành do những người có bằng cấp Ph.D (tiến sĩ) và
tự nhận có trách nhiệm phải bênh vực cho Phật Giáo. Những tác giả này chỉ trích
sự hiểu biết về Phật Giáo của Đức Giáo Hoàng và nhận định, phê phán toàn bộ
triết học tư tưởng Thiên Chúa Giáo một cách ngây thơ nông cạn (có nghĩa là họ
lại làm đúng cái công việc mà họ chỉ trích nơi Giáo Hoàng). Ngay cái tựa đề
"Đối Thoại" cũng đã sai lầm vì các trí thức Phật Giáo trong nhóm Giao
Điểm (ngoại trừ một vài tác giả thực sự có ý định đối thoại) chỉ làm một việc
là công kích Thiên Chúa Giáo một cách phiến diện, nông nổi chứ không hề có ý
muốn đối thoại trong tinh thần bao dung tôn giáo. Một tác giả trong tuyển tập nói
trên (Hoàng Hà Thanh) thậm chí lên giọng chưởi bới Giáo Hoàng là "bố láo. Nói xàm". (sđd:158).
Như vậy làm sao có thể
là đối thoại tôn giáo trong khi tất cả các trí thức Phật Giáo này đều tự cho là
"hiểu" đạo Phật là đạo hiền hòa, từ bi, không sân si, tranh chấp với
ai? Vậy thì tức giận vì sự hiểu lầm của một người thuộc về một tôn giáo khác
thì có đúng với tinh thần đạo Phật hay không? Tại sao một người Thiên Chúa Giáo
lại có bổn phận phải nghiên cứu tìm hiểu Đạo Phật? Tại sao các trí thức này
không tự hỏi cái mà mình hiểu về Thiên Chúa Giáo như vậy có đúng là công bằng
hay không? Tại sao tôi lại phải tìm hiểu biết, học Phật Giáo trong khi chuyên
môn của tôi là thần học Thiên Chúa Giáo? Nếu Giáo Hoàng trả lời như thế thì các
tác giả trường phái Giao Điểm nói sao?
Vấn đề trở nên nghiêm
trọng hơn khi chúng ta đọc đến những điều các tác giả viết về Phật Giáo thì mới
ngã ngửa ra là ngay cả những người có bằng cấp đầy mình này cũng hiểu biết Phật
Giáo một cách hết sức thô thiển. Đặc biệt là tác giả Hoàng Hà Thanh hoàn toàn
chẳng hiểu biết gì cả về thần học Thiên Chúa Giáo và chỉ có những kiến thức mù
mờ sai lạc về tư tưởng Phật Giáo nhưng trong bài viết lại có thái độ ngông
cuồng ra vẻ ta đây thông thạo kinh đíển, siêu quán cổ kim, khoe khoang lố bịch "tôi vừa đọc xong hai cuốn Apology của Plato và
Xenophon (tác
giả viết sai thành "Zenephon"), tôi phải viết bài này nên tôi tạm ngưng đọc The Clouds
của Aristophanes (tác
giả viết sai thành "Aristophane") (sđd:176).
Tác phẩm "The Clouds" là
một hài kịch Hi Lạp chế diễu Socrates, còn Apology của cả hai tác giả Plato và
Xenophon thì bênh vực cho Socrates. Vậy thì có liên quan gì tới Thiên Chúa Giáo
hay Phật Giáo? Tác giả Hoàng Hà Thanh "thông thái" đến nỗi tự dịch
Phật Bà Quan Âm ra tiếng Nhật là "Canon" và còn chú thích thêm đây là
tên hiệu một loại máy ánh (sđd:167). Nhật đọc là "KANNON" (Quan Thế
Âm) chứ chưa bao giờ là "CANON" cả. Đã khoe khoang "kiến
thức" như vậy rồi mà tác giả lại còn "ca" bài ca "khiêm tốn
giả tạo": "Kiến thức của tôi chỉ như cọng cỏ bên khe
suối"(sđd:176). Nếu tự thấy là kiến thức thấp lè tè như vậy
thì viết bài khảo cứu để làm phiền người khác làm gì? Đó là chưa kể những đoạn
thêm thắt tiếng Anh một cách lố lăng trong bài một cách không cần thiết ("Zen thinking" là
cái gì khó đến nỗi không thể dịch ra tiếng Việt? Còn "tội tổ tông" có
ông linh mục Mỹ nào gọi là "father's sin" đâu,
trong khi ai cũng biết phải dịch là "original sin").
Còn tác giả Lý Khôi Việt
thì đem hẳn sách dịch của người khác (quyển Đức Phật và Phật Pháp của Narada
Thera do Phạm Kim Khánh dịch với đầy sai lầm sơ đẳng) chép vào bài mình, phạm
tội đạo văn một cách trơ trẽn (sđd: trang 67 từ câu "Ngài nhập Đại Bi Định ...." cho đến "
.... tế độ ai" là
chép nguyên văn trong cuốn sách dịch của Phạm Kim Khánh xuất bản năm 197l, tr.
207). Vậy mà Lý Khôi Việt lên giọng khinh miệt kiến thức của Đức Giáo Hoàng là "sơ đẳng, giản lược, sai lạc một cách rất căn bản" (sđd:63).
Còn mình thì trích dẫn (mà không thừa nhận) từ một cuốn sách cũng sơ đẳng về Phật
Giáo chắc là cao kỳ hơn chăng?
Tôi viết những bài này
để phê bình sự hiểu biết về Phật Giáo và tôn giáo học nói chung của những người
tự nhận là trí thức Phật Giáo. Tác phẩm này có những tác hại nguy hiểm khi tạo
cho những người không chuyên môn trong lãnh vực Phật học và tôn giáo học có cảm
giác họ đang lắng nghe các chuyên gia trong ngành Phật Giáo trình bày và biện
luận cho giáo lý Phật. Tình hình học Phật trong nhiều năm qua vốn đã tang
thương rách nát với các luận điệu của Nhất Hạnh cứ mãi nhấn mạnh vào Thiền Tông
theo quan điểm của D.T.Suzuki như thể Thiền là tinh hoa của Phật giáo trong khi
thâm ý của Suzuki muốn nói "Zen là tinh hoa của văn hóa Phật Giáo Nhật Bản" mà thôi (đọc bài Robert
Sharp viết về Suzuki trong The Curators of the Buddha, Donald Lopez biên tập,
1996) nếu cộng thêm sự hò hét bát nháo của nhóm Giao Điểm thì không biết tương
lai còn sẽ rách nát đến như thế nào trong một niềm tự kiêu kỳ quặc: "Phật
Giáo là nhất, đặc biệt là Thiền Tông, bất lập văn tự, vô ngôn, vô niệm, mọi tư
duy khác đều là cỏ rác".
Vậy lập
trường của bài phê bình này là gì? Bênh vực cho Thiên Chúa Giáo? Không có gì
khôi hài đối với tôi bằng việc bênh vực cho các niềm tin tôn giáo của mình bằng
cách chưởi rủa bôi bác một tôn giáo khác. Mục đích của tôi, với tư cách là người
nghiên cứu Phật học, đơn thuần là vấn đề học thuật. Trước khi bênh vực Phật
Giáo một cách đúng đắn để tiến hành một cuộc song thoại tôn giáo nghiêm nghị,
chúng ta phải có hiểu biết đầy đủ về Phật Giáo và cả tôn giáo mà mình muốn xây
dựng đối thoại.
Những triết gia Nhật
Bản, những thiền sư thật sự, trong nhóm Kyoto như Nishida Kitaro, Shizuteru
Ueda, Nishitani Keiji, đều có những nỗ lực nghíêm chỉnh để tìm hiểu thần học
Thiên Chúa Giáo. Đại học Hawaii có hắn một tạp chí chuyên san về đối thoại Phật
Giáo và Thiên Chúa Giáo ("The Journal of Buddhist-Christian
Dialogue"). Người Mỹ không coi bất cứ tôn giáo nào là quốc giáo của họ,
nhưng họ quan tâm đến vấn đề đối thoại một cách nghiêm chỉnh (đọc Steve Odin,
Donald Mitchell) chứ không khởi đầu đối thoại bằng cách chưởi bới đối phương,
tranh luận bằng cách xuyên tạc, lẫn lộn mọi sự kiện, thái độ ngang hiên, hống
hách, tình cảm sướt nướt cải lương ("tôi tắt đèn đi ngủ. Vừa nằm xuống. Nước mắt chợt
ứa ra", Nguyễn
Tử Đóa, "Đạo Phật Trong Mắt Tôi", sđd:368).
Tự nhiên sao lại "nước mắt ứa ra"? Chỉ vì ngâm mấy câu thơ rẻ tiền
của Tuệ Sĩ? Có liên quan gì đến đối thoại tôn giáo? Tại sao phần trên đang
trình bày giáo lý Phật Giáo, phần dưới lại đệm thêm nước mắt vào làm gì ? Có
khác gì một giáo sư sau khi giảng xong thuyết tương đối Einstein lại kết thúc
bằng cách ca tụng Chế Linh? Mấy câu thơ của Tuệ Sĩ là tinh hoa của giáo lý Phật
Giáo hay sao?
Khoe khoang trí thức,
bằng cấp một cách lố lăng trong khi vẫn nấp sau những lời lẽ khiêm tốn, nhún
nhường giả tạo. Nói tóm lại, trong tất cả các tác giả tự nhận là trí thức Phật
Giáo thuộc nhóm Giao Điểm, mở cả trường dạy Phật học Lý Trần, kể cả giáo sư
Minh Chi thuộc trường cao cấp Phật học trong nước, không một ai có bằng cấp hay chứng minh thư cho
thấy được đào tạo trong ngành Phật học. Không một ai trong nhóm
toàn "Ph.D" này biết một ngôn ngữ Phật Giáo nào (Sanskrit, Pali, Tây
Tạng, Mông Cổ, Mãn Châu, Hán cổ, Triều Tiên hay Nhật Bản) hay một ngôn ngữ thần
học Thiên Chúa Giáo ( Hy Lạp, La Tinh, Do Thái cổ, Đức,… ) nào, vậy mà đủ can
đảm viết về cả hai tôn giáo có truyền thống lớn vào bậc nhất trong lịch sử nhân
loại. Đòi đối chiếu, đối thoại mà không hề học qua tôn giáo học tỷ giáo
(comparative religion), hiện tượng học tôn giáo (phenomenology of religion), xã
hội học tôn giáo (sociology of religion) và thông thích luận (hermeneutics),
nói chung là mù tịt về phương pháp luận tôn giáo học, thì sự đối chiếu và so
sánh sẽ diễn ra trên cơ sở nào? Đâu phải chúng ta chỉ dựa vào một bản dịch vớ
vẩn nào đấy bằng tiếng Việt viết về Phật Giáo cũ rích từ mấy chục năm, thì tự
cho là đã quán thông đạo Phật và có quyền chê bai kẻ khác là dốt nát, không
hiểu triết lý đạo Phật?
Điều nghịch lý đáng nói
nhất chính là ở điểm, một mặt chúng ta khẳng định rằng Phật Giáo là một tôn
giáo rất cao siêu về mặt tư tưởng triết học, một mặt khác không bao giờ chúng
ta hy sinh thì giờ và tiền bạc của bản thân để học hành, nghiên cứu đàng hoàng
về Phật Giáo. Tôn kính, say mê triết học Phật Giáo thì phải bỏ công nghiên cứu
về Phật Giáo một cách nghiêm túc. Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ khi còn ở Việt Nam là
thuộc tôn giáo Cao Đài - (chỉ lo cổ võ cho Đạo Giáo và tam giáo đồng nguyên,
một khái niệm tưởng tượng chưa hề có trong thực tế lịch sử Trung Quốc và Việt
Nam) - nay đột nhiên biến thành một trí thức Phật Giáo, giống như kỹ sư Nguyễn
Đăng Thục vẫn là thần tượng của bao nhiêu "trí thức Phật Giáo" khác
trong nhóm Giao Điểm(1).
Người duy nhất trong
cộng đồng Việt Nam tại Mỹ có bằng tiến sĩ Phật Học (đại học Harvard) là tác giả
Như Hạnh thì lại bị Trần Chung Ngọc thuộc nhóm Giao Điểm lên giọng dè bĩu là
"chưa bao giờ thực hành Phật Pháp, "khẩu Thiền", "chưa tiêu
hóa được cái học khoa cử". ("Ý Nghĩa và Vai Trò Trí Thức Trong Phật
Giáo", Giao Điểm, số 22, tháng 3, năm 1996). Sự nghịch lý này cũng giống
anh một anh thợ điện lên tiếng chỉ trích trình độ hiểu biết vật lý của Einstein,
hay Phạm Duy lại đi chê bai nhạc lý của Beethoven.
Cần phải biện biệt rõ sở
thích và học thuật. Anh có quyền thích Chế Linh, tôi có quyền thích cải lương.
Anh theo Phật Giáo, tôi theo đạo Dừa. Nhưng một khi anh tiến hành phê phán sở
thích, tôn giáo của người khác, anh đã bước vào vấn đề học thuật, tự biện,
tranh luận, và không có quyền gán chữ "hí luận" cho người khác để che
đậy mặc cảm thiếu tri thức của mình. Đây là một thái độ mù ám mà tôi thấy rất
nhiều "trí thức" trong cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại vướng phải.
Học hành nghiên cứu giáo lý Phật thì không ra gì, có người học hành nghiêm
chỉnh hẳn hoi thì lại ra sức bôi bác, dè bĩu, cho là nệ tinh thần khoa cử. Còn
các "trí thức" trong nhóm Giao Điểm khoe nhặng bằng cấp (ai cũng cẩn
thận chua thêm hai chữ Ph.D vào sau tên mình, trong khi chẳng có gì cho thấy là
trình độ của các trí thức này qua nổi ngưỡng cửa B.A.) chẳng phải là "nệ
khoa cử" thì "nệ" cái gì?
Đã mê tín bằng cấp đến
mức độ đâm ra thù ghét những người có bằng cấp như vậy mà lại tự cho là thông
suốt giáo lý vi diệu của Đức Phật, một giáo lý mà chính họ giải thích là
"giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự". Thật ra chắng có tôn giáo
nào lắm văn tự như Phật Giáo, kinh điển thì vô số, ngôn ngữ chép kinh rất đa
dạng, một nhà nghiên cứu Phật Học ngày nay phải nỗ lực gấp ba, gấp bốn lần các
nhà chuyên môn trong các lãnh vực khoa học nhân văn xã hội khác, vì phải học
các cổ ngữ như Phạn văn, Pali, Tây Tạng, Hán cổ, Mông Cổ, Mãn Châu, Khotaese,
các sinh ngữ như Nhật Bản, Triều Tiên. Không thể nào chỉ tự đắc với bốn câu kệ
Thiền Tông rồi cho phép mình khinh bỉ những học giả suốt đời cắm cúi nghiên cứu
kinh điển Phật Giáo là "buôn bán hí luận", "không biết thực hành
Phật Pháp", "khẩu Thiền". (Trong khi ngay cả bản thân chữ
"khẩu thiền" Trần Chung Ngọc cũng hiểu sai, nhưng tôi sẽ bàn đến bài
viết của TCN trong một bài khác).
Cũng giống như nhiều
người cho rằng cứ sang Mỹ "thực hành tiếng Anh là chu tất chứ học ngữ pháp
làm gì cho mất thì giờ. "Thực hành" tiếng Anh, hay "thực hành
Phật Giáo", thì căn cứ vào đâu để thực hành? Đã không có một sở học vữug
chắc về Phật Giáo, làm sao có thể tiến hành song thoại với Thiên Chúa Giáo hay
với bất cứ tôn giáo nào khác? Chẳng lẽ khi tranh luận với một linh mục về một
vấn đề giáo lý nào đó để thuyết phục họ tin rằng triết học Phật Giáo là cao
siêu thâm thúy hơn thần học Thiên Chúa Giáo, chúng ta khi bị bí lối, lại giở
cái mánh "vừa bắn vừa chạy" bằng cách tuyên bố "Phật Giáo là bất
khả tư nghị"?
Đã "bất khả tư
nghị" tại sao nhóm Giao Điểm có khả năng siêu tuyệt gì hơn người mà có thể
đứng ra "tư nghị" một cách lùi xùi sơ đẳng, hạng bét, đầy sai lầm ấu
trĩ, chép sách, đạo văn, trích dẫn lung tung (mà chẳng bao giờ ghi xuất xứ ở
đâu ra)…
Chắc chắn người đọc sau
khi đọc xong các bài viết này sẽ có cảm giảc tôi đã tiến hành phê phán cuốn
sách này của nhóm Giao Điểm một cách chi tiết, một cách tàn nhẫn và thô bạo.
Người đọc cũng có thể đặt câu hỏi về động cơ cá nhân của người viết: tư thù cá
nhân? Thực ra thì tôi chưa hề quen biết bất kỳ tác giả nào trong nhóm Giao Điểm,
và chỉ tình cờ được đọc cuốn sách của họ trong một cơ hội gần đây. Tôi nhìn
nhận rằng sự phê phán của tôi rất nặng nề và khó nuốt. Nhưng điều tôi muốn nói
thực ra lại rất đơn giản, chắng có gì khó nuốt cả: muốn hiểu biết các vấn đề
triết học hay tư tưởng, chúng ta phải dấn thân học hỏi nghiên cứu một cách
nghiêm nghị, không nên nói nhăng nói cuội, nhai lại những câu nói hay ý tưởng
sáo ngữ đã được lập đi lập lại hàng triệu lần trong những cuốn sách phổ thông
về tư tưởng Phật Giáo, làm ra vẻ thông thái với kiến thức "tự học"
của mình trong khi lại phạm những lỗi lầm hết sức sơ đẳng trong học thuật.
---------------------
---------------------
(1) Trong hầu hết sách ông
viết, Nguyễn Đăng Thục thường chêm thêm ngoại ngữ, chẳng hạn tiếng Sanskrit
(Phạn ngữ), nhưng thường là diễn giảng trật. Thí dụ một câu hết sức quen thuộc
trong Upanishads là "I'at ivam asi" (người là Thực Thể Ấy - khái niệm
đồng nhất atman / tiểu ngã và brahman / đại ngã). Nguyễn Đăng Thục
chuyển thành "Ta là cái ấy". Trong khi chỉ cần một hiểu biết sơ dẳng
về tiếng Phạn cũng biết Ivam là đại từ nhân xưng ngôi thứ hai. (Xem Lịch Sử Tư
Tưởng Việt Nam, quyển II, Quốc Vụ Khanh Văn Hóa xuất bản, 1969, tr. 83). Cũng
ngay trong quyển này (tr. 34) Nguyễn Đăng Thục sau khi nhắc đến tên Mã Minh còn
chua thêm tiếng Phạn là ... Asanga. Trong khi Asanga là Vô Trước, bậc thầy khai
sáng ngành Duy Thức Học tại ấn Độ, không ai có học Phật Giáo mà không biết vì
danh xưng Asanga quá khổ biến. Còn Mã Minh đúng ra phải là Asvaghosa.
Chương 1
Những sai lầm tổng quát trong cuốn sách "Đối Thoại" của nhóm Giao Điểm
1.1. Sai lầm cơ bản đầu tiên của nhóm Giao Điểm là chỉ có những kiến thức hoàn toàn sơ đẳng, phiến diện về Phật Giáo, lẫn lộn Phật Giáo với Phật Học, khi thì nói về Phật Giáo như một tôn giáo, khi thì nói
về Phật Giáo như một hệ thống triết học trong cùng một ngữ cảnh khiến mọi thảo luận đều trở nên rối rắm, lộn xộn, đầy ẩn ý xuyên tạc, ngộ nhận. Phật Giáo với tư cách là một tôn giáo thì không có lý do nội tại nào để cao siêu hơn Thiên Chúa Giáo cả. Ngay cả bản thân chữ "cao siêu" cũng
chẳng
có lý do tồn tại khi bàn về tôn giáo. Người Phật tử đi chùa, thắp nhang, lạy Phật, cũng giống như tín đồ Islam ngày năm lần hướng về La Mecca làm lễ với Allah. Lấy tiêu chuẩn nào, từ tôn giáo nào, để chê bai tôn giáo này
và đề cao
tôn giáo khác.
Cũng phải thận trọng phân biệt đạo Phật như một tôn giáo trong khía cạnh lý tưởng (ideal), phi thời gian (atemporal) và đạo Phật như một tôn giáo cụ thể có sử tính phát triển trong một bối cảnh cụ thể: Phật Giáo Ấn Độ sơ kỳ, Phật Giáo Trung Quốc đời Đường, Phật Giáo Nhật Bản thời Kamakura, Phật Giáo Tích Lan thời Trung Cổ, Phật Giáo Thái Lan cận đại, Phật Giáo Việt Nam thời Pháp thuộc...vân vân... Trong khía cạnh lý tưởng, tôn giáo nào cũng
là biểu tượng cho sự hoàn thiện cao nhất đối với tín đồ thuộc tôn giáo đó. Trong
khía cạnh
phát triển lịch sử trong một hoàn cảnh, thời điểm cụ thể, ngay các tín đồ trung kiên nhất của một tôn giáo nào đó vẫn thấy được bao nhiêu là khiếm khuyết, sơ hở, thiếu hụt của việc thực hành tôn giáo so với lý tưởng đã đề ra. Cho nên những người tố cáo Thiên Chúa Giáo mạnh nhất, dữ dội nhất lại chính là các linh mục trung thành nhất đối với Thiên Chúa Giáo như một lý tưởng. Cũng như các tín đồ đạo Phật kết án các nhà sư Phật giáo không sống theo đúng giới luật, lại chính là các Phật tử thuần thành, trung kiên với lý tưởng Phật Giáo. Nghĩa là chỉ trích, phê bình tác
phong, hành vi của một vài nhà sư Phật Giáo không có nghĩa là phủ nhận, bài bác Phật Giáo như một lý tưởng tôn giáo. Cũng như các linh mục viết bài tố cáo các việc làm bại hoại, vô đạo đức của các linh mục hay con chiên Thiên Chúa
giáo khác, không có nghĩa là họ bác bỏ niềm tin vào Thiên Chúa và
sắp
chuyển sang quy y đầu Phật.
Nagarluna phản đối những sai lầm về giáo lý Phật Giáo trong thời đại ông nên phải bỏ công trước tác bao nhiêu là tác
phẩm để phê phán các sai lầm này đang lưu hành ngay trong giới Phật Giáo. Martin Luther thất vọng về sự đồi trụy xa hoa của cung đình Giáo Hoàng tại Rôma, nên phẫn nộ tạo ra phong trào cải cách tôn giáo (The
Reformation). Luther là một giáo sư thần học nên lại càng trung kiên hơn với tôn giáo của ông như một lý tưởng, và do đó đâm chán
ghét những thực hành tôn giáo sai trái đã diễn ra xung quanh ông. Nếu Nagariuna mà thấy Giáo Hoàng ăn chơi đàng điếm thì ông cũng tỉnh bơ, chẳng lấy gì làm buồn bực, phẫn nộ như Luther vì Giáo Hoàng
đâu phải thuộc Phật Giáo. Chính vì vậy, đứng về mặt phương pháp luận tỷ giảo tôn giáo, nếu so sánh Phật Giáo như một tôn giáo trong khía cạnh lý tưởng với Thiên Chúa Giáo như một tôn giáo trong khía cạnh thực tế lịch sử là hoàn toàn sai lầm. Và đây chính là điều "các trí thức Phật Giáo" trong nhóm
Giao Điểm tiến hành. Họ dẫn chứng kinh điển Phật giáo (tức là Phật Giáo như một lý tưởng) để chứng minh Phật Giáo là một tôn giáo hoàn thiện, tốt đẹp, giàu lòng từ bi. Nhưng khi công kích Thiên
Chúa Giáo lại dựa vào các thực hành tôn giáo diễn ra trong lịch sử phát triển của tôn giáo này (Pháp Đình Tôn Giáo, vụ án Galilée, v.v...).
Những người Thiên Chúa Giáo có thể làm ngược lại và sự cãi nhau sẽ kéo dài vô tận vì phương pháp so sánh đã hỏng ngay từ nền tảng. Nói một cách nôm na hơn, đó là một phương pháp so sánh gian lận: anh chọn cái mô hình tốt đẹp nhất trong tôn giáo của anh (chỉ tồn tại trên bình diện lý tưởng) và đem đi so sánh với thực tế đầy khiếm khuyết trong tôn giáo đối phương. Và nói cho triệt để hơn, những "trí thức" Phật Giáo nhóm Giao Điểm thực ra cũng chẳng biết tí gì về lịch sử thực sự của Phật Giáo trong nhiều quốc gia, nhiều thời kỳ khác nhau, nên cứ tưởng những thông tin nghèo nàn lạc hậu của mình là chính lịch sử Phật Giáo của mọi quốc gia, mọi thời kỳ.
Cũng như ngài giáo sư Minh Chi, trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam, nghe nói đến việc tu viện Phật Giáo Trung Quốc có mở tiệm cầm đồ hay tổ chức xổ số thì kinh ngạc đến dãy nảy lên, cứ khăng khăng cho người viết là nói bậy, nói bạ, vu khống, vu oan cho Phật Giáo. Nếu Phật Giáo mở tiệm cầm đồ hay tổ chức vé số thì có gì là xấu? Mở tiệm cầm đồ thì có gì khác với tiệm cơm chay? Đơn giản chỉ vì không biết thông tin nào khác
ngoài những điều mình vẫn tưởng tượng từ trước, nên không thể tin được có một sự kiện như vậy. Cũng như Nguyễn Phúc Bửu Tập, chẳng biết gì về lịch sử Phật Giáo, lại đòi so sánh các ý niệm kinh tế học hiện đại với giáo lý Phật Giáo rồi đem gán bừa cho Phật Giáo là khuyến trợ phát triển (sđd:315-329,
"Giáo lý Nhà Phật và Phát Triển Kinh Tế). Nực cười hơn là Nguyễn Phúc Bửu Tập lại trích dẫn Max Weber, một nhà xã hội học tôn giáo, có quan điểm hết sức tiêu cực về Phật Giáo vì Weber cho rằng Phật Giáo không thể giúp cho xã hội Ấn Độ về mặt phát triển kinh tế. Tôi sẽ phân tích điều này trong bài phê
bình Nguyễn Phúc Bửu Tập.
1.2. Điểm sai lầm thứ hai, cũng rất cơ bản, là phân biệt tín ngưỡng, niềm tin tôn giáo và học thuật, nghiên cứu, tìm hiểu về tôn giáo đó. Thần học rất quan trọng đối với Thiên Chúa Giáo nhưng tín đồ Thiên Chúa Giáo không cần phải nghiên cứu Thomas Aquinas, Augustine, Eckhart,
Anselm, Bonaventura, Bernard thì mới đến với Thiên Chúa được. Cũng như tín đồ đạo Phật không cần nghiên cứu Lâm Tế, Đạo Nguyên (Dogen), Thân
Loan, Pháp Nhiên, Duy Thức Học, Trung Quán Luận, thì mới phụng sự hành trì Phật Pháp được. Nhưng nếu tự cho là người am hiểu Phật Pháp với tư cách người nghiên cứu thì phải chấp nhận tiêu chí đánh giá
chung của cộng đồng học giả trong cùng ngành, phải biết sử dụng thành thạo các ngôn ngữ Phật Giáo (ít nhất cũng phải biết Pali và Sanskrit), phải tiếp cận được với các văn bản Phật Giáo gốc (primary sources), có
nghĩa là không phải học qua bản dịch của Phạm Kim Khánh như Lý Khôi Việt rồi tuyên bố đã hiểu Phật Pháp là gì, phải nắm vững các phương pháp luận hiện đại về nghiên cứu tôn giáo, về so sánh tỷ giáo, về lịch sử tôn giáo...v.v...
Nếu anh tuyên bố tin Chúa hay tin Phật Bà Quan Âm là đấng cứu rỗi, không ai tranh luận với anh, vì anh đang đứng trong phạm vi tôn giáo, tín ngưỡng, nhưng nếu anh tuyên bố rằng Chúa Giêsu đã có lúc
sang Tây Tạng học hỏi Phật Giáo, thì anh đã bước sang lãnh vực học thuật và tôi có quyền tranh luận (dispute) để bác bỏ ý kiến đó. Không thể tiến hành một hành động vô lý theo kiểu khi phê phán quan điểm trong thần học Thiên Chúa Giáo thì theo đúng góc độ duy lý khoa học (thí dụ đặt những câu hỏi ngu xuẩn như "Thượng Đế mày ngang mũi dọc ra sao? Có ai thấy mặt mũi, diện mạo của Ngài đâu?) nhưng khi biện hộ cho Phật Giáo lại nhảy sang phạm vi tôn giáo, tín ngưỡng:
"Phật dùng tâm từ rải khắp thế gian... Phật Giáo là cao siêu, bất khả tư nghị". Nếu người Thiên Chúa Giáo cũng hỏi ngược lại: "Ông Phật Di Lặc là Phật tương lai, chưa có mặt, anh chưa thấy, chưa quen, chưa biết, sao đã vội lập bàn thờ? Thời buổi y khoa tiến bộ này làm sao tin được việc cầu Quan Thế Âm Bồ Tát thì được sanh con trai, cầu Dược Sư Phật thì luôn khỏe mạnh, khỏi cần đi bác sĩ ?" thì
trả lời sao đây? Nghĩa là
không nên lẫn lộn hai phạm vi: tự biện, lý luận và phạm vi tín ngưỡng, tôn giáo.
1.3. Sai lầm thứ ba, thuộc phạm vi phương pháp luận nghiên cứu, liên quan đến việc sử dụng nguồn tư liệu để trích dẫn. Khi trích dẫn một tư liệu, hai điều kiện đầu tiên và quan trọng nhất mà tư liệu đó phải thỏa mãn là tính quan hệ (relevance) và tính thẩm quyền (authoritativeness). Có nghĩa là tư liệu được trích dẫn phải quan hệ đến luận điểm đang thảo luận một cách nhất quán.
Các "trí thức Phật Giáo" trong nhóm
Giao Điểm trích dẫn một vài câu của Bertrand Russell,
Einstein nói về Phật Giáo với thái độ khen ngợi để chứng minh rằng Phật Giáo phù hợp với khoa học hiện đại, thì không thỏa mãn yêu cầu của tính quan hệ khi trích dẫn. Russell và Einstein
chống tất cả mọi hình thức tôn giáo mà hai ông
cho là mê tín, phản lý trí, phản nhân bản, đi ngược tinh thần khoa học, không phải chỉ riêng có Thiên Chúa
Giáo. Đó
là thái độ trí thức căn bản của họ. Khi hai người có một vài nhận xét tích cực đối với Phật Giáo là vì họ tin rằng Phật Giáo là một tôn giáo vô thần. Về mặt này họ không khác với Đức Giáo Hoàng, nhưng Giáo Hoàng xem vô thần là xấu, còn họ xem vô thần là tốt là tiến bộ hơn hữu thần. Nhưng nếu hai đại bác học này mà chứng kiến cảnh Phật tử nhang khói xì xụp, lạy Phật vào các ngày lễ Phật, thì chắc chắn họ sẽ thay đổi ý kiến. Họ thích Phật Giáo hơn Thiên Chúa Giáo chỉ vì họ cho rằng Phật Giáo duy lý hơn, có thái độ cởi mở hơn, và là một triết học hơn là một tôn giáo đúng nghĩa.
Đây là ngộ nhận khá phổ biến của nhiều trí thức phương Tây vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Như vậy trích dẫn Russell và Einstein
là không có tính quan hệ. Đó là chưa kể nếu chúng ta thực sự hiểu được lý thuyết vật lý của Einstein thì mới ngã ngửa ra chính học thuyết của nhà đại bác học này, khi dùng để thuyên giải cơ cấu thực tại (the structure of
reality), chỉ giống như triết học Phật Giáo thuộc hệ phái Nhất Thiết Hữu Bộ (Survastivada) nhưng hoàn toàn không phù hợp với duyên khởi luận Phật Giáo, và thuyết tính không trong
Trung Quán Luận (Madhyamaka hay
Sunyatavada). Về mặt thực tại luận, cơ học lượng tử (quantum mechanics) của Niels Bohr và
Heisenberg mới thực sự đáng so sánh với triết học Phật Giáo. Tôi sẽ bàn đến điểm này trong một, bài khác.
Điều kiện thứ hai là tính thẩm quyền: cả hai đại bác học này, dù giỏi cỡ nào đi nữa, không phải là hai nhà nghiên cứu Phật Học và do dó chẳng hề có thẩm quyền gì trong lãnh vực này để được trích dẫn cả. Hiểu biết về Phật Giáo của họ cũng mơ hồ, lan man, chung chung
và sơ đẳng như các "trí thức" Phật Giáo trong nhóm Giao
Điểm. Trích dẫn họ để ủng hộ cho một vấn đề Phật Học cũng giống như khi muốn chứng minh là nhạc Beethoven hay lắm lại trích dẫn vài ba câu tuyên bố của ca sĩ Chế Linh trong một cuộc phỏng vấn cá nhân nào đó.
Một điều kiện bổ túc: tính thời gian của tư liệu được trích dẫn. Chẳng hạn ngài giáo sư Minh Chi, trường Cao Cấp Phật Học tại Việt Nam, khi trích dẫn quyển sách của Radhakrishnan, Eastern
Religion and Western Thougth để bênh vực cho tư tưởng ấn Độ, không ý thức rằng đây là một tác phẩm quá xưa rồi (1936-1937, như chính Minh Chi viết, sđd:187), thuộc loại phế thải, chẳng học giả nào chuyên ngành triết học Ấn Độ lại dùng làm sách tham khảo có uy tín, để phản bác hay biện minh cho một vấn đề triết học nào đó. Khi trích dẫn một tài liệu đã cũ (trừ trường hợp các văn bản cổ đang là đối tượng nghiên cứu thì khác) chúng ta chỉ cho mọi người thấy một điều là bản thân đã lạc điệu với tinh thần nghiên cứu về lãnh vực đó đến mấy chục năm và như thế câu trích dẫn chẳng còn uy tín bao nhiêu
nữa. Cũng như Lý Khôi Việt khi phản bác Đức Giáo Hoàng lại sử dụng một tài liệu vừa sơ đẳng (Đức Phật và Phật Pháp của Naranda Thera), vừa quá xưa, mất hết cả thời gian tính (ngay cả bản dịch tiếng Việt chắc chắn phải xuất hiện lâu sau nguyên tác, được ấn hành lần đầu năm 1964).
Nếu thợ săn chỉ cần nhìn dấu chân mà suy ra cả tiểu sử của con vật cần săn, thì người chuyên môn
trong ngành chỉ cần nhìn qua tư liệu trích dẫn liền hiểu ngay đây chỉ là một tay mơ tập tễnh vào nghề, tri thức còn nằm trong thời kỳ ngành học mới phôi thai. Tay mơ thì không có gì đáng
trách, nhưng nếu tay mơ này lên giọng cao kỳ, khoác lác
thì người chuyên môn lại phải tốn công nhắc anh ta nhớ vị trí thật sự của anh ta đang ở đâu.
l.4. Ngay cả một điều kiện tầm thường nhất của việc trích dẫn mà ai đặt bút viết cũng cần tôn trọng: đó là cố gắng bảo đảm khách quan tính của việc trích dẫn thì lập luận của mình mới tăng trọng lượng. Nhưng các "trí thức Phật giáo" thuộc nhóm Giao Điểm thì làm ngược lại: họ tự trích dẫn lẫn nhau để biện hộ cho một quan điểm nào đó. Trần Chung Ngọc khi phản bác học giả Như Hạnh thì trích dẫn Lê Hiếu Liêm, người cùng "băng"
Giao Điểm với ông (giữa tiến sĩ luật Lê Hiếu Liêm và tiến sĩ Phật Học Như Hạnh, tại sao tôi phải tin ông Liêm nói đúng
về một vấn đề Phật Giáo hơn ông Như Hạnh?).
Trần Văn Kha khi phản bác Đức Giáo Hoàng lại đi trích dẫn bác sĩ Nguyễn Văn Thọ, cũng nằm trong nhóm Giao Điểm, hay ít ra cũng chia sẻ quan điểm của nhóm này ("Phật Giáo và Giáo Hoàng", sđd:l04)
thì giá trị khách quan đâu còn nữa. Đó là chưa kể tính thẩm quyền của Lê Hiếu Liêm hay bác sĩ Nguyễn Văn Thọ, hai người được trích dẫn. Hai người này là ai trong cộng đồng học thuật quốc tế, học lực ra sao, bằng cấp thế nào, đã xuất bản bao nhiêu công trình
trong lãnh vực được trích dẫn (tức Phật Học hay thần học Thiên Chúa Giáo) mà lại được Trần Chung Ngọc và Trần Văn Kha trích dẫn như hai chuyên gia cao cấp có đầy đủ thẩm quyền về vấn đề đang thảo luận?
1.5. Khi trích dẫn tài liệu cần theo một phương pháp thống nhất: cần chú thích nguyên tác
(nếu là
tiếng nước ngoài), tên tác phẩm, năm tháng xuất bản lần đầu và năm các bản tái bản, tên nhà xuất bản, số trang... một điều quá sơ đẳng. Nhưng tôi ngờ rằng các “tiến sĩ” của nhóm Giao Điểm; ngay cả học B.A tại đại học Mỹ, không biết đã có trải qua hay chưa mà viết lách hết sức luộm thuộm, bê bối: hầu hết các nguồn trích dẫn là không đề nơi xuất xứ, khi thì có kèm theo tiếng Anh, khi thì không,
khi có tên sách thì không có tên tác giả, khi có tên tác giả thì không biết là tên cuốn sách nào, khi có tên
sách thì không biết từ trang nào, v.v... Tôi sẽ chứng minh đầy đủ nhận xét này khi bàn đến từng tác giả trong tập sách Đối Thoại.
1.6. Khi nghiên cứu một lãnh vực khó khăn như Phật Giáo, một trong những điều kiện tiên quyết là phải học các cổ ngữ liên hệ Sanskrit, Pali hay Tây Tạng. Hầu hết các nhà nghiên cứu Phật học hiện đại tại phương Tây đều nắm vững ba ngôn ngữ này. Việc hiểu biết ngôn ngữ giúp cho người nghiên cứu tránh những tiền giả định (presuppositions) thường phát sinh khi chỉ đọc qua bản dịch tiếng Anh, tiếng Pháp, hay trong chính ngôn ngữ mẹ đẻ. Rất nhiều người, ngay cả các tu sĩ Phật Giáo ít học, giải thích chữ “tùy hỉ thí” là muốn cho bao nhiêu thì cho, tùy hỉ, trong khi “tùy hỉ” (mudita) chỉ có nghĩa là “có cảm giác vui vẻ, an lạc khi thấy người khác làm phước” (sympathetic joy). Cũng rất nhiều người, ngay cả các tu sĩ Phật Giáo học nhiều, vẫn giải thích cụm từ “sở tri chướng” là học hành, trí thức nhiều quá sẽ gây chướng ngại cho việc giác ngộ - (Trần Chung Ngọc, tiến sĩ tại đại học Wisconsin, và Phạm Trọng Chánh, tiến sĩ đại học Paris, cũng như “thiền sư” Nhất Hạnh mà cả hai đều kính phục, đều hiểu “sở tri chướng” theo nghĩa này)." Trong khi đây là một thuật ngữ chuyên môn (technical term) trong ngành Duy Thức Học: jneyavarana. “Sở tri”(jneya) không phải là tri thức (knowledge) mà chỉ đối tượng của thức, tức là sự vật trong thế giới khách quan vẫn bị chìm theo quan điểm tam tự tính (Svabhavatraya) trong triết học Duy Thức. Khi trực nhận ra “viên thành thật tính” (bản chất, trung thực tròn đầy) của đối tượng tri thức, hiểu rằng sự vật khách quan không có tự tính độc lập, cái nhìn sẽ không còn bị vướng trở ngại nữa và con người được giải thoát về phương diện nhận thức (jnana).
Theo triết học Phật Giáo, một hành giả có thể đạt đến giải thoát bằng tâm (cetovimutti), giải thoát bằng trí tuệ (pannavimutti), hay bằng cả hai, tâm và trí (ubhatobhaga-vimutti). Khi hành giả nhận được tính giả lập trong thế giới hiện tượng (dharmanairamya), tri nhận được thực tính của chúng chỉ là không tính (sunyata), tức không có tự tính (nihsvabhava), hành giả đạt được giải thoát.
(Đọc tiếp Chương 2 kỳ sau)
__._,_.___
No comments:
Post a Comment