À thì ra ông Hữu Nguyễn
cũng đi bộ đội xâm lăng miền Nam vậy, chứ đâu phải một mình nhà văn Nhật Tuấn?
Tôi là Nguyễn Hữu Chí, sinh ra và
lớn lên ở Miền Bắc, từng có hơn một năm phải đội nón cối, đi dép râu, theo đội
quân Việt Cộng xâm lăng Miền Nam. Trong những năm trước đây, khi cuộc đấu tranh
bảo vệ chính nghĩa của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại Úc còn minh
bạch, lằn ranh quốc cộng còn rõ ràng, tôi hoàn toàn tin tưởng và sẵn sàng đối
phó với mọi âm mưu, thế lực của cộng sản. Nhưng gần đây, có những dấu hiệu rõ
ràng chứng tỏ, những thế lực chìm nổi của cộng sản tại Úc đang tìm cách xóa bỏ
lằn ranh quốc cộng, đồng thời thực hiện âm mưu làm suy yếu sức mạnh đấu tranh
của người Việt hải ngoại. Trong hoàn cảnh đấu tranh ngày càng khó khăn đó, tôi
thấy mình chỉ có thể đi tiếp con đường mình đã chọn khi được quý độc giả hiểu
và tin tưởng. Vì vậy, tôi viết hồi ký này, kể lại một cách trung thực cuộc đời
đầy đau khổ, uất ức và ân hận của tôi khi sống trong chế độ cộng sản, cũng như
những nguy hiểm, may mắn khi tôi tìm tự do.... Trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn
trên nhiều phương diện, lại phải vừa duy trì tờ báo, vừa tham gia các sinh hoạt
cộng đồng, vừa tìm cách "mưu sinh, thoát hiểm" giữa hàng chục
"lằn tên đường đạn", nên hồi ký này có rất nhiều thiếu sót. Kính mong
quý độc giả thông cảm bỏ qua, hoặc đóng góp nếu có thể.
|
Thế thì nhà báo Hữu
Nguyên không biết nhà văn Nhật Tuấn là ai? Mời click vào đây đễ tìm hiểu?
|
|
|
From: "Son Ha hachinhnhan
To:
Sent: Sunday, January 15, 2017 3:21 AM
Subject: Fw: [ChinhNghia] Fwd: Nhật Tiến, “nhà văn của tuổi thơ trước 75” thành “chiến sĩ xung kích VHVC”
To:
Sent: Sunday, January 15, 2017 3:21 AM
Subject: Fw: [ChinhNghia] Fwd: Nhật Tiến, “nhà văn của tuổi thơ trước 75” thành “chiến sĩ xung kích VHVC”
On Sunday, January 15, 2017 5:59 AM, "Huu Nguyen huunguyen@saigontimes.org
[chinhnghia]" <chinhnghia@yahoogroups.com>
wrote:
Kính thưa Quý vị,
Cuối năm 2016,
nhà văn Nhật Tiến cho phổ biến cuốn “Từ
Nhóm Bút Việt đến Trung Tâm Văn Bút Việt Nam 1957-1975”, trong đó
có đoạn chất vấn ông Viên Linh, về hai cáo buộc đối với nhà văn Thanh Lãng và
Phạm Việt Tuyền. Việc này đã tạo nên sóng gió trên các diễn đàn trong suốt
nhiều tháng qua. Tưởng sự việc như vậy đã đủ, không ngờ ngày 14 tháng 1 vừa
qua, Nhật Tiến lại “tiếp tục leo thang” gây phân hoá giữa những người cầm viết,
phổ biến “Thư ngỏ gửi
toàn thể các Văn Hữu quanh chuyện Trung Tâm Văn Bút (1957-1975)”.
Đọc Thư Ngỏ, một câu hỏi quan trọng cần được đặt ra: Ông
Nhật Tiến có tư cách để yêu cầu ông Viên Linh, trưng bằng cớ về hai chuyện này
không? Câu trả lời của chúng tôi là KHÔNG!
Trả lời như vậy
nên chúng tôi tin rằng, khi đề cập đến 2 cáo buộc của Viên Linh trong cuốn “Từ Nhóm Bút Việt đến Trung Tâm Văn
Bút Việt Nam 1957-1975”, cũng như hành động “tiếp tục leo thang”
qua Thư Ngỏ ngày 14 tháng 1, Nhật Tiến đã làm mất đi ý nghĩa cao quý, “lưu
trữ lại cho các thế hệ sau những hoạt động văn hóa của các bậc tiền bối”,
được ông tung hô. Không những thế, qua việc làm đó, Nhật Tiến còn cho người đọc
thấy rõ ràng hơn, “nhà văn của tuổi thơ Nhật Tiến” thời trước 1975, sau thời
gian gần gũi “chợ cá VC”, được VC huấn luyện, nhồi sọ, đã thực sự trở thành
“tên biệt kích văn hoá” của VC, trong kế hoạch gây phân hoá người Việt hải
ngoại và chạy tội cho VC.
Sau đây, kính
chuyển tới Quý vị bài viết của chúng tôi, với ước vọng, được sự quan tâm, chia
sẻ và phổ biến. Nếu Quý vị nhận được email này hơn một lần, xin thông cảm; nếu
phiền lòng, xin thứ lỗi và email về huunguyen@saigontimes.org.
Trân trọng,
Hữu Nguyên
Hữu Nguyên
Nhật
Tiến, “nhà văn của tuổi thơ trước 75” thành “chiến sĩ xung kích VHVC”
Nhật Tiến, nhà văn của tuổi thơ trước 1975 nay trở thành biệt
kích văn hoá VC tại hải ngoại (phải); và em trai Nhật Tuấn, bộ đội VC xâm lăng
Miền Nam “đi xe commăng ca đến thăm Nhật Tiến” vào tháng 5 năm 1975, đồng thời
là văn nô VC được Nhật Tiến thừa nhận “nổi tiếng từ trước năm 1975”.
Ngày 14 tháng
1 năm 2017, nhà văn Nhật Tiến phổ biến “Thư ngỏ gửi toàn thể các Văn Hữu quanh
chuyện Trung Tâm Văn Bút (1957-1975)” (nhat-tien-thu-ng
o).
Mở đầu ông viết:
[trích nguyên văn]
Gần cuối năm 2016, tôi có biên soạn và cho ấn hành cuốn “Từ Nhóm Bút
Việt đến Trung Tâm Văn Bút Việt Nam 1957-1975” nhằm mục đích lưu trữ lại cho
các thế hệ sau những hoạt động văn hóa của các bậc tiền bối như Nhất Linh, Đỗ
Đức Thu,Vũ Hoàng Chương, Vương Hồng Sển, Đào Đăng Vỹ, Hồ Hữu Tường, Tam Lang Vũ
đình Chí, LM Thanh Lãng, Phạm Việt Tuyền …cùng hàng trăm hội viên Văn Bút khác.
Trong khi đi tìm tài liệu cho cuốn sách này tôi phát hiện là ông Viên
Linh đã tiết lộ hai chuyện động trời trong bài viết của ông, in trong cuốn
“Chiêu Niệm Văn Chương- Vũ Hoàng Chương Lịch Sử Thơ” do báo Khởi Hành ấn hành
năm 2000”. Hai chuyện ấy là:
1) Trung Tâm Văn Bút Việt Nam đã do Việt Cộng điều hành, qua bàn tay
Thanh Lãng, Phạm Việt Tuyền.
2) GS Phạm Việt Tuyền, Tổng Thư Ký Văn Bút sau 1975 bận rộn đặt bàn
giấy đăng ký các “nhà văn Ngụy”, trước khi chịu đói không nổi, phải bỏ Sài Gòn
chạy qua Pháp.
Để bảo vệ danh dự cho hai thành viên nòng cốt của Văn Bút cùng đã
quá cố và nhất là không muốn các thế hệ sau có cái nhìn lầm lạc về một tổ chức
văn hóa vốn quy tụ hầu hết các nhà làm văn hóa lão thành đã tổn hao nhiều công
sức đóng góp cho nền văn hóa miền Nam VN trong gần 20 năm trời ròng rã
(1957-1975), tôi đã yêu cầu ông Viên Linh, chủ nhiệm báo Khởi Hành hãy trưng
bằng cớ cụ thể.
Cho đến nay Viên Linh đã không trả lời được về
những điều do ông cáo buộc kể trên.
[hết trích]
Đọc Thư Ngỏ, một câu hỏi quan trọng cần được đặt ra: Ông Nhật
Tiến có tư cách để yêu cầu ông Viên Linh, trưng bằng cớ về hai chuyện này
không? Câu trả lời của chúng tôi là KHÔNG!
Trả lời như vậy nên chúng tôi tin rằng, khi đề cập đến 2 cáo
buộc của Viên Linh trong cuốn “Từ
Nhóm Bút Việt đến Trung Tâm Văn Bút Việt Nam 1957-1975”, cũng như
hành động tiếp tục leo thang qua Thư Ngỏ ngày 14 tháng 1, Nhật Tiến đã làm mất
đi ý nghĩa cao quý, “lưu
trữ lại cho các thế hệ sau những hoạt động văn hóa của các bậc tiền bối”,
được ông tung hô. Không những thế, qua việc làm đó, Nhật Tiến còn cho người đọc
thấy rõ ràng hơn, “nhà văn của tuổi thơ Nhật Tiến” khi sống dưới chế độ tự do
của VNCH thời trước 1975; sau thời gian gần gũi “chợ cá VC”, được VC huấn
luyện, nhồi sọ, đã thực sự trở thành “tên biệt kích văn hoá” của VC, trong kế
hoạch gây phân hoá người Việt hải ngoại và chạy tội cho VC.
Sau đây là lý do và bằng chứng cho câu trả lời của chúng tôi.
Thứ nhất, Nhật Tiến là một
trong những người cầm viết đầu tiên tại hải ngoại, thực hiện chủ trương giao
lưu với VC. Bằng chứng, khi được bà Tà Cúc phỏng vấn, Nhật Tiến
trả lời: “Hợp Lưu chỉ là cái tên tờ
báo mà khoảng giữa năm 1991, khi chuẩn bị ra số đầu, họa sĩ Khánh Trường
đã làm maquette với tên “Giao Lưu” . Tôi đề nghị lấy tên “Hợp Lưu” để
giảm thiểu cái ý nghĩa giao dịch hướng về trong nước, và anh Khánh Trường
đã đồng ý đề nghị này”. (ta-cuc-phong-van-nhat-t
ien)
Câu trả lời của Nhật Tiến cho thấy 2 điểm quan trọng: Một, ngay từ giữa năm
1991, Nhật Tiến đã thực hiện chủ trương giao
lưu với VC. Vậy trước 1991 bao lâu, Nhật Tiến đã tình nguyện hoặc
được móc nối thực hiện chủ trương giao lưu với VC? Hai, quan trọng và nguy
hiểm hơn, Nhật Tiến đã khôn ngoan che đậy dụng tâm giao lưu với
VC, bằng cách thay tên “Giao Lưu” bằng “Hợp Lưu” để giảm thiểu cái ý nghĩa giao dịch hướng về trong nước như Nhật Tiến đã vô
tình thú nhận với bà Tà Cúc.
Thứ hai, cũng trong bài phỏng
vấn của bà Tà Cúc, Nhật Tiến cho biết, “tôi đã in chung với Nhật Tuấn một tuyển tập truyện ngắn, mang tên
Quê Nhà, Quê Người, ấn hành ở trong nước vào khoảng đầu thập niên 90”. Ông giải thích: “Lúc bấy giờ Nhật Tuấn đang làm nhà xuất bản Văn Học ở trong nước và cậu
ấy cũng đã là một cây bút nổi tiếng từ trước năm 1975. Cậu ấy đề nghị là
“Bây giờ anh em mình hợp tác in chung một cuốn. Anh viết những chuyện xảy ra ở
hải ngoại và em viết những chuyện xảy ra ở trong nước. Những chuyện xảy ra ở
hải ngoại thì gọi là “Quê người”, và những chuyện ở trong nước thì gọi là “Quê
nhà”. Đó là tên truyện “Quê nhà, quê người” ra đời trong hoàn cảnh đó”.
Việc làm và lời giải thích của Nhật Tiến cho thấy, mặc dù có anh
ruột là Nhật Tiến vô Nam, Nhật Tuấn vẫn là người được VC ưu dãi nhờ Nhật Tuấn “là một cây bút nổi tiếng từ trước năm 1975”. Nên nhớ, xưa nay những người cầm viết dưới chế độ VC luôn
tự coi mình là THẰNG HÈN (như Tô Hải). Nhất là giai đoạn trước 1975, người cầm
viết thường tự coi mình là kẻ tiếp tay VC tạo ra bánh vẽ và gây tội ác trong
cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam (như Chế Lan Viên).
Cho tới năm 2005, sau nhiều lần sửa đổi nhằm che đậy bàn tay
lông lá của đảng, Điều Lệ của Hội Nhà Văn VC vẫn còn ghi rõ trong Điều 2, mục
3: “Hội Nhà văn Việt Nam đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; Hội hoạt động theo đường lối văn
hóa văn nghệ của Đảng; chịu sự quản lý của Nhà nước và tuân thủ theo quy định
của pháp luật nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.” (xin click vô đây coi nguyên
văn)
Thực tế, dưới chế độ CS toàn trị suốt hơn nửa thế kỷ qua, bên
cạnh giai cấp thống trị gồm các đảng viên cộng sản, hầu hết những nhà văn nhà
báo VC cũng là những kẻ đồng loã, tích cực tiếp tay VC gây nên những tộc ác
kinh thiên động địa cho dân tộc VN. Nhất là những nhà văn có công xâm lăng Miền
Nam và được VC ưu đãi như Nhật Tuấn. Như vậy, trong giai đoạn VC xâm lăng Miền
Nam trước 1975, Nhật Tuấn, em trai của Nhật Tiến đã “là một cây bút nổi tiếng” của
chế độ VC, thì NỔI TIẾNG như thế nào? Và vì sao?
Theo tài liệu trên net, Nhật Tuấn có nhiều năm làm công nhân đào đường rồi làm trinh sát công binh
trong thời VC xâm lăng Miền Nam. Sau 1975, ông giải ngũ, về làm cán bộ biên tập
Nhà xuất bản Văn Học VC. Thấy ông có công lao và năng khiếu văn chương, VC cho
ông đi học tại chức khoa Ngữ văn, Đại học tổng hợp. Tốt nghiệp, ông được nhà
văn đại tá VC Hoàng Lại Giang giúp chuyển về NXB Văn học. Hoàng
lại Giang còn là người ơn rất nhiều việc lớn sau này của Nhật Tuấn. (xin click vô đây coi nguyên văn)
Được biết, Hoàng Lại Giang, đại tá VC, tên khai sinh là Nguyễn Văn Bé, sinh
năm 1938 tại Bình Định, theo VC từ bé, năm 1955 theo VC tập kết ra Bắc, học ở
trường Học sinh Miền Nam. Năm 1960, ông vào học khoa văn Đại học Tổng hợp Hà
Nội. Năm 1965, ông ra trường, về công tác ở NXB Văn Học. Năm 1977, ông vào
Saigon, làm biên tập – phụ trách chi nhánh NXB Văn học phía Nam. (xin click vô đây coi nguyên
văn)
Qua câu trả lời của Nhật Tiến và những điều vừa trình bầy, ta có
quyền tin, Nhật Tuấn là đảng viên CS và là công cụ sắc bén của chế độ CS, được
CS ưu đãi. Và chắc chắn, việc in ấn tác phẩm “Quê Nhà, Quê Người” tại VN của
hai anh em Nhật Tiến và Nhật Tuấn, đã chịu sự chỉ đạo với “nhiều ơn
huệ” của nhà văn đại tá VC Hoàng Lại Giang.
Thứ ba, cũng trong bài phỏng
vấn của bà Tà Cúc, Nhật Tiến đã biện minh cho việc làm của ông, “Tôi gom một số truyện đã viết ở hải ngoại và được đăng rất nhiều
trên báo chí ở hải ngoại và đưa cho Tuấn, để in ra, chứ hoàn toàn không có một
chính sách, một chủ trương hay một kế hoạch nào tiến hành trong việc giao lưu
mà có lợi cho cộng sản cả”.
Biện minh của Nhật Tiến cho thấy, ông đã ngây thơ (?) không
thấy được âm mưu của VC trong kế hoạch, từng bước xoá bỏ ranh giới giữa những
người cầm viết VC và những người cầm viết đang tỵ nạn CS tại hải ngoại. Sự
thực, ở thập niên 1990 đang hấp hối chờ chết, VC chỉ cần sự hiện diện tên tuổi
của những nhà văn, nhà thơ tỵ nạn CS, trong các tác phẩm do VC xuất bản tại VN.
Như vậy cũng đủ để VC tuyên truyền, tạo uy tín và chính danh cho VC đối với
người Việt trong nước, đồng thời gây phân hoá trong cộng đồng người Việt hải
ngoại. Đó là mục đích để VC chấp thuận cho in ấn “Quê Nhà, Quê Người”. Và VC đã
thành công trong mục đích này, với sự tiếp tay của Nhật Tiến.
Nên nhớ, suốt thời gian hơn nửa thế kỷ qua, dưới chế độ VC, hàng
ngàn nhà văn nhà báo đã không dám viết, hoặc viết nhưng không dám xuất bản. Đơn
cử, Tô Hải, sinh năm 1927, theo VC từ năm 1945, đảng viên CS năm 1949, đóng góp
nhiều công lao cho VC trong cuộc xâm lăng Miền Nam với nhiều huân chương, vậy
mà khi viết xong hồi ký Thằng Hèn vào năm 2000, đã phải giấu nó đi và “cẩn thận ghi thêm một dòng ở ngoài
bìa “Để xuất bản vào năm 2010”, như một lời di chúc dặn vợ con, khi tôi đã…
chết!”
Trả lời phỏng vấn của bà Tà Cúc, chính Nhật Tiến cũng thừa nhận “TUYỂN TẬP VĂN CHƯƠNG HẢI NGOẠI do nhà Tân Thư của họa sĩ Khánh
Trường hợp tác với nhà xuất bản Văn Học ở trong nước, có sự tham gia của 35
ngòi bút đang sống ở hải ngoại tại nhiều nơi trên thế giới”, nhưng vì Khánh Trường đòi hỏi không sửa chữa, dù chỉ một chữ,
nên “chính quyền trong nước đã
ngăn cấm không cho Tuyển Tập được ấn hành dù nó đã sẵn sàng để xếp chữ và lên
khuôn”. Điều này đủ thấy,
khi VC chấp thuận cho in và phát hành tại VN, cuốn “Quê Nhà, Quê Người”, Nhật
Tiến đã ngoan ngoãn chấp nhận làm công cụ của VC như thế nào.
Qua lời biện minh ngây thơ của Nhật Tiến, và những gì vừa trình
bầy, cùng thực tế tang thương quá hiển nhiên của xã hội VN dưới chế độ VC độc
tài suốt mấy chục năm qua, ta không thể không hỏi: Nhật Tiến, một
nhà văn gốc Bắc di cư, nay đã ở tuổi ngoài 80, quả thực ngây thơ không hiểu
được việc làm tội lỗi và phản bội của ông, hay ông chỉ giả vờ ngây thơ, nhằm
che đậy vai trò giao lưu văn hóa với mục đích làm tay sai cho Đảng và nhà Nước
CS?
Trả lời câu hỏi này một cách công bằng, chúng tôi nghĩ, Nhật
Tiến chỉ giả vờ ngây thơ. Vì như đã trình bầy, ngay phần đầu bài
phỏng vấn của bà Tà Cúc, Nhật Tiến đã vô tình thú nhận với bà Tà Cúc, dụng tâm
đầy khôn ngoan xảo quyệt của ông, khi ông che đậy âm mưu giao lưu với
VC, bằng cách thay tên “Giao Lưu” bằng “Hợp Lưu” để giảm thiểu cái ý nghĩa
giao dịch hướng về trong nước.
Tóm lại, nếu Nhật Tiến đã chọn con đường hoà hợp hoà giải với
VC, trong suốt mấy chục năm qua, ông không có tư cách, chất vấn thi sĩ Viên
Linh, cũng như bất cứ người Việt tỵ nạn CS nào, về bất cứ vấn đề gì liên quan
đến lập trường và chính nghĩa của VNCH. Ông cũng không được phép lợi dụng danh
nghĩa nhà văn, hoặc nhân chứng dưới thời VNCH, để viết sách xuyên tạc lịch sử,
bôi nhọ VNCH và chạy tội cho VC và những kẻ nằm vùng cho VC.
Hữu Nguyên
Tin buồn: Nhà văn Nhật Tuấn, tác giả “Đi Về Nơi Hoang Dã”, đã ra đi!
Posted by adminbasam on
06/10/2015
6-10-2015
Ảnh nhà văn
Nhật Tuấn đăng trên Facebook của ông
Tin từ trong nước cho biết nhà văn
Nhật Tuấn, bào đệ của nhà văn Nhật Tiến đã qua đời tại Bệnh viện Thống Nhất Sài
Gòn hồi 18 giờ, ngày 06 tháng 10 năm 2015.
Nhật Tuấn tên thật và cũng là bút
hiệu, sinh năm 1942 tại Hà Nội. Ông là hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam, đã in gần
20 tác phẩm gồm nhiều tập truyện ngắn và truyện dài. Tác phẩm đầu tay có tên
“Trang 17”, in năm 1978 đoạt Giải nhất Giải Văn Học của Tổng Công đoàn Việt Nam
năm 1978. Nhưng tác phẩm nổi tiếng và xuất sắc nhất của Nhật Tuấn là cuốn Đi Về
Nơi Hoang Dã in năm 1988, bị Nhà Nước CSVN cấm ngay sau khi phát hành nhưng lại
được đón nhận rất nồng nhiệt ở hải ngoại.
Nhiều cơ quan truyền thông, báo chí
và Hội đoàn đã đứng ra bảo trợ cho buổi ra mắt cuốn Đi Về Nơi Hoang Dã được tổ
chức tại trụ sở của “Little Saigon Radio” thuộc Quận Cam, Nam California ngày
7-4-2001.
Ông cũng là người chủ trương trang Facebook Nhật Tuấn, phổ biến nhiều bài mang tính cách
vận động cho tinh thần Dân Chủ tại VN.
Ông cũng đã cộng tác lâu dài cho
Little Saigon Radio, Hồn Việt TV và từng viết bài thường xuyên cho tuần báo
Việt Tide trong thập niên 2001-2010 vừa qua.
______
Nhà văn NHẬT TUẤN (1942 – 2015)
6-9-2015
Nhà văn Nhật Tuấn họ Bùi, sinh ở Hà
Nội, vừa qua đời tại Việt Nam lúc 6 giờ chiều, ngày 6/10/2015.
Sự nghiệp văn học của ông nổi bật
với thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Trong nhiều năm sau này, khi là cộng
tác viên cùa đài Little Saigon Radio, HONVIETV và VIETSTREAM, ông thể hiện mình
là nhà báo sắc sảo, nhạy bén với mọi sự kiện chính trị và xã hội trong nước.
Nhà văn Nhật Tuấn thuộc nhóm trí
thức đi từ Bắc vào Nam, đi từ nhận thức bị “định hướng XHCN” đến sự thức tỉnh,
rồi bất mãn và lên tiếng phẫn nộ, châm biếm đả kích chế độ Cộng Sản và nhà cầm
quyền. Ở cả sáng tác văn học và báo chí của ông, chúng ta đều thấy tính phóng
khoáng của người từng trải, phải sống giữa “thời đồ đểu” (chữ của ông); thấy cả
giọng bất mãn của một người có lòng, biết yêu thương con người; và thấy cả sự
tức giận của một con người có chí khí, thẳng tay tố cáo những cái xấu đang diễn
ra trong nước.
Thu nay có một người “đi về nơi
hoang dã”…
Đi Về Nơi Hoang Dã là một tiểu
tuyết nổi tiếng của nhà văn Nhật Tuấn. Ngoài ra ông còn những sáng tác khác:
Trang 17 (1978)
Con chim biết chọn hạt (1981)
Bận rộn (1985)
Mô hình và thực tế (1986)
Lửa lạnh (1987)
Biển bờ (1987)
Tín hiệu của con người (1987)
Đi về nơi hoang dã (1988)
Niềm vui trần thế (1989)
Những mảnh tình đã vỡ (1990)
Tặng phẩm cho em (1995)
Một cái chết thong thả (1995)
Con chim biết chọn hạt (1981)
Bận rộn (1985)
Mô hình và thực tế (1986)
Lửa lạnh (1987)
Biển bờ (1987)
Tín hiệu của con người (1987)
Đi về nơi hoang dã (1988)
Niềm vui trần thế (1989)
Những mảnh tình đã vỡ (1990)
Tặng phẩm cho em (1995)
Một cái chết thong thả (1995)
….
Xin chia buồn cùng gia đình nhà văn
Nhật Tiến – anh trai nhà văn Nhật Tuấn, cùng toàn thể gia quyến!
____
Cùng Nhật Tuấn
đi về nơi hoang dã
Nguyễn Nguyên Bảy
17-8-2014
Nguyễn Nguyên Bảy và Nhật Tuấn
Tin dẫn: Làm sao biết Lý
Phương Liên kết moden văn chương Nhật Tuấn cỡ nào, mà cứ nhất định bắt tôi ký
hợp đồng viết một bài Chém Gió Văn Chương Nhật Tuấn. Hợp đồng ký xong, tôi điện
thoại cho Tuấn xin phép được lên Miền Hoang Dã của bạn để lấy tư liệu viết bài.
Bạn đáp: Mời lên ngay, lên
ngay, tư liệu tao đầy một bụng, lên nhanh kẻo tao cho cá trê ăn hết bi giờ../
Trời ơi là đất, thế là đi, Bình Dương, đâu như Tân Uyên, cửa Chiến Khu D, Miền
Hoang Dã, Một Nhà văn, một.. đợi chờ bầu bạn../ Thế là / Gọi Tô Hoàng/ Hai vợ
chồng cùng Ok/ Xem ra họ còn yêu mến Nhật Tuấn hơn cả vợ chồng mình/ Chữ mình
là nói với Lý, người tắp lự tổ chức chuyến đi../ Gọi là tổ chức cho oai phong
kèn trống/ Gọi Vinasun, Taxi 7 chỗ, 4 người thong thong, vừa đi vừa hỏi đường
qua điện thoại.. và đến/ Và ôm nhau/ Và vào bếp/ Và chém gió/ Và nhậu… miền
hoang dã… vịt nướng chao, gỏi xu hào, chân giò hấp chấm mắm tép/ chém gió gan
trời/ mỡ chúa… Vậy thôi…/ Bài Chém Gió sẽ viết…/
Theo một số nhà lý luận phê bình
văn học bậc mét, thì đây chỉ là cuốn truyện dài, không phải tiểu thuyết. Để
tránh những tranh cãi không đáng có ngay từ dòng mở đầu bài viết, tôi đã xin
phép Nhà văn Nhật Tuấn, gọi tác phẩm Đi Về Nơi Hoang Dã của
anh là cuốn Văn Dài, 268 trang kể là dài, một cuốn văn dài đáng đọc, đáng tôn
vinh, với riêng tôi, đây là cuốn văn dài hay nhất, chuông khánh nhất, thức tỉnh
nhất của Văn Đàn Việt Nam kể từ khi tôi biết đọc sách đến nay.
Cái hay khởi ngay từ tựa đề sách,
tựa đề lại chính là thông điệp sách, chính là thông điệp tác giả gửi đến người
đọc. Một thông điệp đay đi đay lại, tàng ẩn hư thực nghĩa, đọc một lần nhớ lâu,
nghĩ mãi, nhớ nghĩ cho đến vỡ nghĩa đa chiều, rồi thấm mà nhận thức, mà ngộ ra
thông điệp. Thực đúng lý của câu chuyện, tựa đề phải là: Đi Về Nơi Thiên Đường.
Nhà văn Nhật Tuấn cao tay, đã không lộ mình và lộ văn như một số nhà văn viết
và in sách thể tài này trước anh, như Xuân Vũ với Thiên Đường Treo hoặc
Dương Thu Hương với Thiên
Đường Mù. Anh gọi tên cuốn sách của mình là Đi Về Nơi Hoang Dã.
Nơi Hoang Dã theo cách gọi
của Nhật Tuấn lại chính là Nơi Thiên Đường, trong sách là đỉnh Hua Ca. Hành
trình lên đỉnh Hua Ca (thiên đường) là hành trình gồm ba khúc thức (tỉnh thức),
nói cách khác 268 trang sách miêu tả truyện này truyện khác đọc vắn, đọc nhanh,
cốt truyện cũng chỉ là ba khúc thức, dẫn lại dưới đây:
Khúc 1, kỳ vọng thiên đường:
“Phà ơi – nàng kêu lên – anh lên
đỉnh núi Hua Ca. Cao lắm, sát tầng mây kia đấy. Hua Ca có nghĩa là “đầu quạ”,
nghe nói ở cái mỏ của nó phun ra một dòng nước, nếu hai người cùng uống nước đó
trong một cái chén thì không bao giờ quên được nhau…“
“Thật không? Em nói thật không?
“Thật chứ, ông nội em kể lại cho
bố, bố kể lại cho em. Nhưng phải thực bụng với nhau mới uống được, người nào
không thực bụng uống vào chết ngay.”
Tôi nói với nàng nếu vậy nhất quyết
tôi sẽ tìm bằng được lên đỉnh Hua Ca lấy một chai nước về tặng nàng để mai kia
uống chung với ai đó.” (Sách đã dẫn 227)
Khúc 2, thất vọng thiên đường:
“Tôi ngơ ngác nhìn quanh, nửa tin
nửa ngờ, không lẽ tôi đã đi một vòng ngay trên đầu con quạ đấy ư? Vậy còn cái
mỏ của nó phun ra đòng nước thần đâu? Chẳng lẽ cái vùng đất huyền diệu nàng Sao
kể cho tôi nghe lại tầm thường toàn sương mù gai góc và đầy những vũng nước
vàng ố và bẩn thỉu thế kia ư? Không thể như thế được, cái đỉnh Hua ca thần
thánh ấy chắc không phải nơi tôi đang đứng đây, nó phải ở đâu đó cao tít từng
mây kia chứ. Thôi nhé, vĩnh biệt chuyện đi tìm nước thần thoát ra từ miệng con
quạ. Tôi không thể bắt chước thằng học giả, không thả mang thứ nước vàng đục
kia và gọi nó là nước thần về cho nàng Sao. Tôi bước nhanh ra khỏi vũng lầy đầy
những bọ gậy và lá mục…”
Khúc 3: hy vọng thiên đường
“Trong đêm cuối cùng trên đỉnh Hua
ca, chúng tôi đốt một đống lửa, ngồi quây quần như những ngày trước.Không ai hé
răng một lời. Tất cả đều ngồi thẫn thờ trước ngọn lửa đang bốc cao kéo những
tàn đỏ đuổi nhau và mất hút trong bóng đêm. Mọi việc giữa bọn tôi rồi cũng qua
đi như thế. Sáng mai sẽ xuống núi, sẽ nói với nàng Sao rằng suối thần trên đỉnh
Hua Ca chỉ có trong huyền thoại, tuy nhiên, Không Vì Thế Con Người Không Thực
Bụng yêu Nhau…”
Cốt truyện chỉ là vậy, thông điệp
chỉ là vậy, chưa đầy một trang sách trong số 268 trang. Sự tuyệt vời của thông
điệp ở chỗ, đã đến được thiên đường, nhưng ngộ ra không phải là thiên đường, mà
chỉ là nơi hoang dã, tức là thiên đường chỉ là huyền thoại, là không có thực,
mà nếu có thì cũng đã đi lạc hướng thiên đường, phải đi lại từ đầu, lỗi không
phải bởi người đi, mà lỗi của hệ thống định hướng. “Thôi nhé, vĩnh biệt chuyện đi tìm
nước thần thoát ra từ miệng con quạ”,“sáng mai sẽ xuống núi”, đó là
một khẳng định, một sửa chữa, một đoạn tuyệt cái sai, cái lỗi, không còn con
đường nào khác, giải pháp nào khác. Và “Sẽ nói với nàng Sao rằng suối thần trên
đỉnh Hua Ca chỉ có trong huyền thoại, tuy nhiên, Không Vì Thế Con Người Không
Thực Bụng Yêu Nhau..”
Nơi con ngưởi thực bụng yêu nhau,
nơi ấy chính là thiên đường. Đó không phải là câu văn vẻ, mà là một định nghĩa
nhân văn đẹp đẽ nhất của thiên đường. Văn dài Đi Về Nơi Hoang Dã không
có cốt truyện, không có nhân vật, không có tình yêu nảy lửa, sét đánh, tay ba,
tay tư tranh dành chụp giựt… nói tóm, là không có những cái/thứ mà các tiểu
thuyết xưa nay dụng biến. Nhật Tuấn đã viết một thứ văn dài hay tiểu thuyết
kiểu Nhật Tuấn, mới, lạ, không giống ai và quan trọng là đã thành công. Có thể
gọi đó là tiểu thuyết luận giảng hay tiểu thuyết dịch lý. Tôi nghiêng về ý sau:
Tiểu thuyết dịch lý. Dịch lý ngay từ thông điệp đến bố cục, đến nhân vật đến
văn phong. Nói vậy không cố ý định văn pháp Nhật Tuấn, càng không ẩn ý thăng
hoa Nhật Tuấn như một kỳ tài, mà là nói đúng theo cảm nhận thu hoạch của
người đọc. Trường hợp ngay cả Nhật Tuấn cũng bất ngờ vì nhận định này, thì Tuấn
ơi, hãy chắp tay cảm ơn Trời, đã ban cho Tuấn cái linh thần mà viết được sách Đi Về Nơi Hoang Dã với
lý dịch mạch lạc, cao siêu và đầy nhân tính. “Sẽ nói với nàng Sao rằng
suối thần trên đỉnh Hua Ca chỉ có trong huyền thoại, tuy nhiên, Không Vì Thế
Con Người Không Thực Bụng Yêu Nhau..”. Câu văn này sâu cực ý nghĩa dịch. Một
hạt dương hoan phối với một hạt âm mà sinh ra thai khí, mà thành con người, cứ
thế, thành gia đình, thành quê hương, thành xã tắc. Dịch học gọi toẹt huyệt đàn
ông gặp gỡ huyệt đàn bà là hoan phối, văn chương văn vẻ chữ hoan phối thành làm
tình, thành yêu nhau, rồi mở rộng thành tình yêu. Như vậy chữ tình yêu ít nhất
cũng bao gồm một cặp âm dương, yêu nhau để sống và để truyền giống mà con người
còn mãi, còn mãi để yêu nhau. Như vậy, trong chữ Tình yêu tàng ẩn hai hạt cơ
bản gây dựng nên nó, đó là hạt sinh tồn và hạt sinh lý. Chất lượng của hai hạt
cơ bản này là thước đo cuộc sống, con người phấn đấu không ngừng để mức độ hai
hạt cơ bản này cao dần, cao dần, cao cho tới mức mơ ước của con người, mức mơ
ước ấy chính là thiên đường.
Ai trong Đi Về Nơi Hoang Dã đã
đi về nơi thiên đường-đỉnh Hua Ca ấy? Mời theo văn của Nhật Tuấn, nơi trang 11:
“Chúng tôi có năm người, một ông
già và bốn gã đàn ông lực lưỡng sẵn sàng làm chồng những cô gái khỏe mạnh, làm
cha những đứa bé chập chững, làm chủ những gia đình vào chiều đông xám lạnh như
chiều nay hẳn đang quây quần quanh bữa cơm nóng sốt. Vậy mà, đằng đẵng bao năm
nay, chúng tôi bị quăng lên những đỉnh núi quanh năm mây phủ, không có cả đến
tiếng chó, một bãi phân trâu, cái thứ ở dưới miền đồng ruộng kia, ta bắt gặp
nhan nhản ngay khi chưa bước chân vào cổng làng..”
Vậy là có 5 người, nhấn mạnh 5
người. Số 5 nhân vật, rõ ràng, minh bạch thế này tất không thể là suy diễn,
Nhật Tuấn đã tung ngũ hành vào hành trỉnh tìm kiếm thiên đường. 5 người này,
tượng cho năm nhân vật (tạm gọi vậy) của truyện, mỗi nhân vật một hành. Ông
già, nhân vật trưởng toán, là nhân vật tung tâm, thuộc thổ. Nhân vật Thằng học
giả, tượng trưng cho trí, thuộc thủy/ Nhân vật Thằng Hộ Pháp tượng trưng
cho lễ (thành tích, cơ bắp) thuộc hỏa/ Nhân vật Thằng cấp dưỡng, tượng trưng
cho nghĩa, thuộc kim./ Và nhân vật “Tôi”, thuộc nhân mộc. Nôm na, ngũ hành cũng
là năm giai cấp chính trong xã hội: Công, nông, binh, trí, thương. Ngũ hành có
tương sinh, tương khắc, mỗi hành phát huy hết năng lực của mình, điều tiết cân
bằng, sinh khắc để tồn tại, để phát triển, để tiến hóa. Ví von về sự điều tiết
sinh khắc: Trên sông (thủy) có con thuyền (mộc), trong con thuyền có bếp lửa
(hỏa), cạnh bếp lửa có hũ gạo (thổ), cạnh hũ gạo có con dao (kim)… Trong Đi Về Nơi Hoang Dã, ngũ
hành người này chỉ là một toán, răm rắp tuân lệnh của toán trưởng, phạt cây, mở
đường, ăn rắn ăn rết, đói khô mép khô môi, cắn rắng, cầm lòng ức nín mà hô khẩu
hiệu tiến lên Đỉnh Hua Ca/ thiên đường. Chỉ có tiến lên, kẻ nào mở miệng bàn
không tiến, nghi hoặc “đường đi không đến”, hoặc có đến thì đấy cũng chỉ là
Đỉnh Hua Ca đầy sương mù và nước đọng bẩn thỉu… thì xích xiềng/xiềng xích/xích
xiềng và cái chết nhơ bẩn, hổ cha, xấu mẹ, ô danh nguồn cội xóm làng… là một
kết thúc. Vì thế, chỉ một con đường vượt núi, tiến lên đỉnh Hua ca huy hoàng.
Tiến lên. Tiến lên ta lại tiến lên/ Tiến lên ta quyết vượt lên hàng đầu/ Hàng
đầu chẳng biết đi đâu/ Đi đâu thì cứ hàng đầu tiến lên/ Nhất định phải tiến
lên. Không được phép nghi ngờ cái sai lầm, cái lạc hướng của Một Ban Chỉ Huy vô
hình, vô tích sự, ngây thơ, ngu dốt nào đó. Tiến lên hay là chết? Thật tiếc mà
may, tiếc là tiếc ông già trưởng toán, vì sức cùng lực kiệt, mà gục ngã trước
cổng thiên đường, và được chôn cất trang nghiêm trên đỉnh Hua Ca mà cả đời ông
ước mơ lên tới đó. May là, toán 5 người cùng lên đỉnh Hua Ca, chỉ một người
chết, 4 người trẻ còn lại đều sống sót, nhấn mạnh, cố ý sai văn phạm: 4 người chẻ còn nại đều xống xót! Lạc
hướng thiên đường thì câu văn cũng phải sám hối, sai văn phạm là sám hối nhẹ
như kiểu nức nở cười… Biết đâu những nức nở cười của tứ hành dân chúng này sang
tai ầm vang đến Ban chỉ huy, lay thức cơn mê lú của họ về Lỗi Hệ Thống, Lỗi Chỉ
Sai Hướng, Lỗi Dẫn sai Đường… để họ hiều là phải thành thực, phải dũng cảm đoạn
tuyệt sai lầm, bắt đầu lại từ đầu như thế nào. Xin thêm một lần cảm ơn nhà văn
Nhật Tuấn đã chuông khánh thức báo cái sai lầm của lỗi hệ thống cho mọi giới
bạn đọc bằng thông điệp Đi Về Nơi Hoang Dã!
Ở trên có nói, văn dài Đi Về Nơi Hoang Dã, ôm
một cốt truyện ngắn xỉn, một trang, làm sao đưa đẩy được 268 trang sách, cuốn
hút người đọc đến dòng cuối cùng? Nhật Tuấn đâu phải thứ “văn nghê quần chùng”,
anh là Nhà Văn thứ thiệt, viết hoa, bằng giọng văn thủ thỉ, trầm ấm, viết mà
như không viết, anh mở lòng tâm sự cùng bạn đọc, đến nỗi đọc hết 268 trang văn,
người đọc còn như muốn đọc thêm, nghe thêm… Nhật Tuấn thực tài hoa, tràn đầy
bản lĩnh viết văn. Nói vậy, là tôi nói, tôi là bạn của Tuấn, lời thơm nhau thì
sao! Xin đọc dưới đây, hai bằng chứng vô tư, công bằng của Tuấn, về Tuấn.
Các sản phẩm văn ngắn, văn dài do
Nhật Tuấn sinh ra gần như trọn cuộc đời, và nay vẫn đang tiếp tục sinh ra, xin
coi là bằng chứng 1. Liệt kê 12 đầu sách đã xuất bản: / Trang 17 (1978)/ Con
chim biết chọn hạt (1981)/ Bận rộn (1985)/ Mô hình và thực thể (1986)/ Lửa lạnh
(1987)/ Biển bờ (1987)/ Tín hiệu của con người (1987)/ Đi về nơi hoang dã
(1988)/ Niềm vui trần thế (1989)/ Những mảnh tình đã vỡ (1990)/ Tặng phẩm cho
em (1995)/ Một cái chết thong thả (1995). Và liệt kê thêm: Những
đã post lên net, sẽ xuất bản, chắc chắn là thế, tham khảo Nhattuan.blogspot.com
Bằng chứng 2, trích dưới đây đôi ba
dòng Đi Về Nơi Hoang Dã, để thấy bút lực Nhật Tuấn còn sung lắm, chữ nghĩa còn
dư lắm, tình văn còn đằm lắm:
“Tôi cố nhắm mắt mà không sao ngủ
được. Lần này thì không phải cái đói hay cái rét mà là những ý nghĩ của chính
tôi. Ông ta là người đã rủ rê tôi theo ông. Cậu đang còn trai trẻ, quẩn quanh
phố phường làm gì cho hèn người. Làm thằng đàn ông phải lên rừng, xuống biển
cho phỉ chí nam nhi… Tôi kính trọng và nghe theo ông cũng vì một thời trai
tráng ông đã: vùng vẫy như thế. Mới ngoài năm chục tuổi, ông đã có trên hai
mươi năm lăn lộn khắp các vùng rùng núi Tây Bắc, Việt Bắc khảo sát và thiết kế
được biết bao nhiêu con đường quan trọng. Một con người cả đời đã được mưa rừng
gió núi làm thoáng đãng tâm hồn, không lẽ lại làm cái việc nhỏ nhặt là giấu
diếm một chút mì chính ăn riêng. Không, thằng học giả nói láo, sách vở chữ
nghĩa làm méo mó đầu óc nó rồi. Ông toán trưởng thường bảo bọn trí thức là bọn
đáng ngờ nhất, nếu không được giáo dục đến nơi đến chốn, bọn nó không đáng bằng
cục cứt. May cho tôi không phải trí thức, tôi chỉ là thằng thanh niên lêu lổng,
mới rời ghế nhà trường phổ thông, đầu óc chưa bị tiêm nhiễm nặng nề nọc độc của
chủ nghĩa cá nhân tư sản, bởi thế như ông nói, tôi rất dễ phấn đấu vươn lên.
Chao ôi, quả thực ông đã lầm lẫn khi chọn tôi làm nòng cốt để bồi dưỡng, đào
tạo, tôi chẳng báo cáo được gì cho ông về những câu chuyện tào lao bọn nó vẫn
đấu láo mỗi khi vắng mặt ông chẳng góp ý giúp đỡ được đứa nào mỗi khi khổ cực
quá, chúng nổi khùng lên chửi cha cả cuộc đời. Tôi cũng không tha thiết lắm
những điều ông vẫn hứa hẹn: lên lương, đi học, chức quyền… các cái đó với tôi,
cũng xa xỉ và xa xôi hão huyền như những món ăn đặc sản thằng học giả thết
chúng tôi buổi tối hôm nào vậy.”
Trở lại với định nghĩa tung ra mà
lý nói chưa hết nhẽ. Văn dài Đi Về Nơi Hoang Dã là
Tiểu Thuyết Dịch Lý. Nói tiểu thuyết dịch lý là nói cái lý tàng ẩn của tiểu
thuyết, cũng là nói cái cách mà tiểu thuyết bầy cho người đọc cách dịch chuyển,
cũng như Kinh Dịch là pho sách (kinh) dạy cho thiên hạ muôn năm cách dịch
chuyển mà tương thích với cuộc sống mà thành tựu hai hạt cơ bản của đời người
là sinh tồn và sinh lý. Với cái kết truyện (Khúc 3: hy vọng thiên đường:
“Trong đêm cuối cùng trên đỉnh Hua ca, chúng tôi đốt một đống lửa, ngồi quây
quần như những ngày trước.Không ai hé răng một lời. Tất cả đều ngồi thẫn thờ
trước ngọn lửa đang bốc cao kéo những tàn đỏ đuổi nhau và mất hút trong bóng
đêm. Mọi việc giữa bọn tôi rồi cũng qua đi như thế. Sáng mai sẽ xuống núi, sẽ
nói với nàng Sao rằng suối thần trên đỉnh Hua Ca chỉ có trong huyền thoại, tuy
nhiên, Không Vì Thế Con Người Không Thực Bụng yêu Nhau…”), Nhật Tuấn
đã khẳng định sự cần thiết và nhất định phải dịch chuyển, thay đổi cách nghĩ và
hành động của người đọc. Tuy anh không chỉ ra cách thay đổi, cách dịch chuyển
cụ thể, vì anh tôn trọng thực tế, hoàn cảnh của từng chủ thể, nói cách khác anh
tôn trọng tự do, nhân quyền. Và còn bởi, phẩm hạnh của văn chương là nhân văn,
là tự do, là kích hoạt tư duy trừu tượng, tư duy chân lý của mỗi cá thể bạn
đọc, của nhân quần, nhân loại. Một cái kết dịch lý.
Tôi xin kể vắn, câu chuyện dưới
đây, thay cho thu hoạch cá nhân, sau khi đọc văn dài Đi Về Nơi Hoang Dã của
Nhà văn Nhật Tuấn.
…Năm 1889, tức là cách nay hơn trăm
năm, nhà chức trách và dân chúng Seattle, tiểu bang Washington, nước Mỹ, nhận
ra một cách sâu sắc là thành phố Seattle của họ đã quy hoạch/ xây dựng/ phát
triển một cách vô tổ chức, dẫn đến sai lầm là Seattle trở thành một thành phố
xú uế tai hại. Quan và Dân Seattle đã thống nhất đi đến một quyết
định sửa sai, có một không hai trên thế giới, là đốt cháy toàn bộ Seattle cũ (The Great Fire Of 1889), nhấn
mạnh, đốt cháy toàn bộ thành phố, và xây dựng lại Seattle đàng hoàng, to đẹp.
Cả hai việc đốt cháy (đoạn tuyệt sai lầm) và xây dựng lại Seattle, người
Seattle đều đã thực hiện thành công. Bằng chứng, bảo tàng dưới lòng đất
(Underground đối chứng quá khứ với hiện tại) và Seattle hiện hữu là thành phố
lớn, đẹp nhất của tiểu bang Washington và cũng là một trong không nhiều các
thành phố hoành tráng, to đẹp, văn minh hàng đầu của nước Mỹ…
Trở lại với cái kết của Đi Về Nơi Hoang Dã.
“Sáng mai sẽ xuống núi, sẽ nói với
nàng Sao rằng suối thần trên đỉnh Hua Ca chỉ có trong huyền thoại, tuy nhiên,
Không Vì Thế Con Người Không Thực Bụng yêu Nhau”.
Xuống núi, đó là một quyết định
đoạn tuyệt đường cùng, một đoạn tuyệt không thể khác. Sẽ nói với nàng Sao rằng
suối thần trên đỉnh Hua ca chỉ có trong huyền thoại. Đó là sự thật, một lời nói
thật, không thể dối trá hay lừa bịp bằng lời nói khác. Rồi sẽ lên đỉnh đồi nào,
núi nào, sông, bể nào để tìm con suối thần có thực, đó là việc khác, chuyện
khác, thuộc pháp dịch của mỗi người. Nhưng dù dịch thế nào chăng nữa, thì tự do
và nhân quyền vẫn là điều thiết cốt của đời sống con người, bởi chúng ta không
bao giờ nguôi quên niềm hy vọng: Con người thực bụng yêu nhau..Tuyệt
vời thay Đi Về Nơi Hoang
Dã, cuốn sách kêu gọi mọi người thực bụng yêu nhau…
NNB/ Seattle tháng 8.14
__._,_.___
__._,_.___
Posted
by: Lucky Ride <
No comments:
Post a Comment