Chiến
tranh Việt Nam: Một lịch sử gần gũi
Tác giả Geoffrey C. Ward và Ken Burns . Kim Âu phỏng dịch
Một hình ảnh
của cuốn sách bìa cứng kèm theo bộ phim, có tiêu đề "Chiến
tranh Việt Nam - An Intimate History"
của
Geoffrey C. Ward và Ken Burns. Giới thiệu - Ken Burns và Lynn Novick
Vào ngày 23
tháng 4 năm 1975, Tổng thống Gerald R. Ford đã lên kế hoạch đưa ra bài phát biểu
quan trọng tại Đại hội Tulane ở New Orleans. Khi tổng thống lên sân khấu, hơn
100.000 lính Bắc Việt đang tập trung ở vùng ngoại ô Sài Gòn, chỉ sau ba tháng
tràn ngập hầu hết miền Nam Việt Nam. Ba mươi năm sau khi Hoa Kỳ lần đầu tiên
tham gia vào Đông Nam Á, mười năm sau khi Thủy quân lục chiến đổ bộ tại Đà Nẵng,
một đất nước xấu số mà hơn 58.000 người Mỹ đã chết đã dứng bên bờ vực thất bại.
"Tất
nhiên, chúng tôi thực sự buồn bởi những sự kiện bi thảm ở Đông Dương", tổng thống nói. Ông nhắc nhở đám đông
người bị trấn áp rằng 160 năm trước, Mỹ đã hồi phục từ một cuộc xung đột khác,
trong đó bà đã phải chịu đựng "sự sỉ nhục và đánh bại"-Chiến tranh
năm 1812- và hứa rằng đất nước sẽ lại một lần nữa "lấy lại được niềm tự
hào đã tồn tại trước khi có Việt Nam". Tuy nhiên, ông vẫn tiếp tục cổ
vũ mạnh mẽ,"không thể đạt được bằng cách chống lại một cuộc chiến tranh
đã kết thúc như Mỹ đã liên quan". Thời gian đã đến như tổng thống nói.
. . thống nhất, băng bó vết thương lớn của quốc gia và bắt đầu một sự hòa
giải lớn của quốc gia". Chỉ bảy ngày sau đó, quân lính Bắc Việt xông
vào cánh cổng Dinh Tổng thống ở Sài Gòn và treo cờ cộng sản. Chiến tranh Việt
Nam đã kết thúc.
Sự kiện xảy ra
đã hơn bốn mươi năm, và mặc dù Tổng thống Ford lạc quan, chúng tôi đã không thể
đưa cuộc chiến tranh đó đằng sau chúng tôi. Những vết thương sâu mà đất nước, cộng
đồng, gia đình và nền chính trị của chúng ta đã gục ngã. Như cựu chiến binh
quân đội Phil Gioia cho biết trong một cuộc phỏng vấn cho loạt phim tài liệu của
chúng tôi, "Chiến tranh Việt Nam đã đâm thẳng ngay vào trái tim nước Mỹ Nó
phân cực đất nước như nó chưa bao giờ bị phân cực kể từ trước cuộc nội chiến,
và chúng ta đã không bao giờ phục hồi. "
Đã hơn 40 năm
nay, và ... chúng tôi đã không thể đưa cuộc chiến đó đằng sau chúng tôi. Những
vết thương sâu đã khiến đất nước, cộng đồng, gia đình và nền chính trị của
chúng ta đã gục ngã.
Gần mười năm trước,
khi chúng tôi hoàn thành sản phẩm postproduction trong một loạt 7 phần về kinh
nghiệm của Mỹ trong Thế chiến II, chúng tôi đã giải quyết để chúng tôi chú ý đến
bi kịch đau đớn, cay đắng, gây nhầm lẫn và nhiều hiểu lầm đó là chiến tranh ở
Việt Nam. Đây là đặc ân của chúng tôi trong suốt thời gian này để cộng tác với
nhà văn, Geoffrey C. Ward, và nhà sản xuất của chúng tôi, Sarah Botstein, cùng
với đội ngũ biên tập, các nhà nghiên cứu và các nhà sản xuất. Chúng tôi cũng được
trợ giúp bởi một ban cố vấn vô giá, các cố vấn lịch sử và cựu chiến binh của
chiến tranh đã cứu chúng tôi khỏi vô số lỗi lầm, nhưng quan trọng hơn, chỉ cho
chúng tôi những khoảnh khắc quan trọng và những mâu thuẫn đáng kinh ngạc lảng
tránh bất kỳ nghiên cứu nghiêm túc nào về Chiến tranh Việt Nam.
Ngay từ đầu,
chúng tôi thề với nhau rằng chúng ta sẽ tránh được những giới hạn của một quan
điểm chính trị nhị phân và các phím tắt của trí tuệ thông thường và lịch sử bề
ngoài. Đây là một cuộc chiến tranh của nhiều quan điểm, một Rashomon với những
câu chuyện "đáng tin cậy", "bí mật, lừa dối, và biến dạng ở mỗi
lượt. Chúng tôi muốn cố gắng kiềm chế và trung thành phản ánh những quan điểm
dường như không thể hòa hợp.
Chúng tôi quan
tâm đến việc cố gắng hiểu được kinh nghiệm thực dân của người Pháp và nó định
hình một cách kỳ diệu những gì sẽ xảy ra ở Hoa Kỳ trong những năm tiếp theo.
Chúng tôi muốn tìm ra những gì đã xảy ra trong các hội trường quyền lực ở
Washington, Sài Gòn, và Hà Nội và tìm hiểu những nhà lãnh đạo đã đưa ra quyết định
xác định số phận hàng triệu người. Thông qua sự sẵn có của các hồ sơ được giải
mật gần đây, học bổng hiện tại, và các bản ghi âm, mặc dù gây sốc, ghi âm âm
thanh, hành động và động cơ của Harry Truman, Dwight Eisenhower, John Kennedy,
Lyndon Johnson và Richard Nixon đều bị bỏ mặc, sự việc đang diễn ra ở miền Nam
Việt Nam trong chế độ độc tài, tàn nhẫn của Ngô Đình Diệm và các tướng lãnh đi
theo ông.
Thông qua sự có
mặt của các hồ sơ được giải mật gần đây, các học bổng nghiên cứu đang tiến
hành, và các bản ghi âm, đôi khi gây sốc, thu thanh âm thanh, các hành động và
động cơ của Harry Truman, Dwight Eisenhower, John Kennedy, Lyndon Johnson và
Richard Nixon đều bị bỏ mặc.
Quan trọng nhất,
chúng tôi muốn hiểu chiến tranh như thế nào trên chiến trường và trên mặt trận,
và chúng tôi muốn tìm hiểu tại sao, như Karl Marlantes, cựu chiến binh Marine,
nói với chúng tôi, người Mỹ không thể có một cuộc nói chuyện dân sự về một
trong những hầu hết các sự kiện hậu quả trong lịch sử của chúng ta. Ông nói:
"Trong nhiều năm, chúng tôi không nói về cuộc chiến đó. "Bạn sẽ mở miệng
ra và bạn sẽ hỏi, bên này là ai? Tôi sẽ tham chiến ở đây không? Nó giống như sống
trong một gia đình với một người cha nghiện rượu . . Bạn biết đấy, shh, chúng
ta không nói về điều đó. "
Chiến tranh, tất
cả các cuộc chiến tranh, tạo ra một loại sự bất hòa, gây hiểu nhầm và làm chệch
hướng hiểu biết rõ ràng. Việt Nam không khác gì. Để làm sáng tỏ một thời điểm
phức tạp và bất ổn trong lịch sử của chúng ta, để đấu tranh để hiểu được sự bất
hòa đặc biệt đó là chiến tranh Việt Nam, chúng ta cần phải vượt qua những câu
chuyện quen thuộc mà người Mỹ đã nói về chiến tranh và bao gồm nhiều quan điểm
khác nhau như câu chuyện kể của chúng ta có thể chấp nhận được. Gần một trăm
người "bình thường" đã đồng ý chia sẻ câu chuyện của họ với chúng tôi
trên máy ảnh: những lời chửi thề và sĩ quan trong Quân đội và Lính thủy quân lục
chiến, tù nhân chiến tranh, phi công chiến đấu và trưởng phi hành đoàn trực
thăng, một ngôi sao của sư đoàn Sao Vàng và em gái của một người lính bị mất
tích , y tá, sinh viên đại học, phóng viên, người biểu tình, các nhà phân tích
quân sự, gián điệp, và nhiều người khác. Đã có mặt khi họ làm chứng cho những
kinh nghiệm của họ vẫn còn cho chúng ta một trong những quà tặng lâu dài của dự
án này.
Trong suốt quá
trình sản xuất dài của chúng tôi, chúng tôi lấy cảm hứng từ kiến trúc sư Maya
Lin, nơi mà Đài Tưởng niệm Cựu chiến binh Việt Nam ban đầu có nhiều tranh cãi
như chiến tranh, nhưng đã trở thành một trong những nơi thiêng liêng của Hoa Kỳ.
Khi cô tiết lộ thiết kế của cô vào năm 1981, Lin nói với báo chí rằng những tưởng
niệm của cô với người Mỹ đã chết trong chiến tranh sẽ là một cuộc hành trình
"làm cho bạn trải nghiệm cái chết, và nơi mà bạn phải là một người quan
sát, nơi bạn có thể không bao giờ thực sự có được với người chết . .
Nó không phải là
cái gì đó sẽ nói, Không sao, mọi thứ đã qua. Bởi vì nó không phải là
"Không có gì, chắc chắn là không phải là bộ phim hay sách của chúng ta, có
thể làm cho bi kịch của chiến tranh Việt Nam được. Nhưng chúng ta có thể, và
chúng ta phải, tôn trọng lòng dũng cảm, chủ nghĩa anh hùng, và hy sinh của những
người phục vụ, những người đã chết, và những người tham gia chiến tranh chống lạichiến
tranh.
Là nhà làm phim,
chúng tôi đã cố gắng làm theo cách duy nhất mà chúng tôi biết: bằng cách lắng
nghe câu chuyện của họ. Vincent Okamoto, cựu chiến binh của quân đội, nói với
chúng tôi, nhớ lại đại đội bộ binh mà ông ta lãnh đạo tại Việt Nam năm 1968.
"Học sinh bỏ
học trung học mười chín, hai mươi tuổi đến từ trình độ xã hội thấp nhất của xã
hội Mỹ . . . họ không có những con đường thoát hiểm mà giới tinh hoa, người
giàu có và đặc quyền đã có. . . nhưng để xem những đứa trẻ này, những người có
ít nhất để đạt được. . . họ sẽ không được tưởng thưởng vì phục vụ tại Việt Nam.
Và sự kiên nhẫn vô hạn của họ, lòng trung thành của họ với nhau, lòng dũng cảm
của họ dưới ánh lửa đạn, là điều phi thường Và bạn sẽ tự hỏi mình: Hoa Kỳ tạo
ra những người đàn ông trẻ như thế này như thế nào? "
Để làm sáng tỏ một
thời điểm phức tạp và bất ổn trong lịch sử của chúng ta ... chúng ta cần
phải nhìn xa hơn những câu chuyện quen thuộc mà người Mỹ đã nói về chiến tranh
và bao gồm nhiều quan điểm khác nhau như câu chuyện kể của chúng ta có thể chấp
nhận được.
Trong khi
Okamoto và hàng trăm ngàn người Mỹ khác đang chiến đấu và chết chóc trong một
cuộc chiến tàn bạo và đẫm máu ở nước ngoài, hàng trăm ngàn đồng bào của họ đã
xuống đường trở về nhà để phản đối chiến tranh. Như nhà hoạt động chống chiến
tranh Bill Zimmerman nhớ lại cho chúng tôi, "Những người ủng hộ chiến
tranh thích nói rằng 'Nước tôi đúng hay sai. . . hay tốt hơn là màu đỏ. "
Những cảm xúc đó có vẻ như điên lên đối với chúng tôi. Chúng tôi không muốn sống
ở một đất nước mà chúng tôi sẽ hỗ trợ cho dù đó là đúng hay sai. . . vì vậy
chúng tôi bắt đầu một kỷ nguyên trong đó hai nhóm người Mỹ, cả hai đều nghĩ rằng
họ đã hành động một cách ái quốc, đã đi đến chiến tranh với nhau."
Một khoảng trống
mở ra trong xã hội Mỹ, và cả hai bên của những điều chia rẽ đã được nói - và mọi
thứ đã được thực hiện -không bao giờ có thể unsaid, không bao giờ có thể được
hoàn tác. "Khi tôi nhìn thấy những người biểu tình chiến tranh. . .
Khi người Mỹ nói
về chiến tranh Việt Nam, học giả và nhà văn Việt Thanh Nguyễn đã viết, chúng ta
thường nói về chính chúng ta. Chúng tôi đã quyết định không phạm phải sai lầm
đó. Làm sao chúng ta có thể hy vọng hiểu được thời điểm hỗn loạn này trong lịch
sử của chúng ta, hoặc để khám phá nhân loại và sự tàn bạo của mọi phía, mà
không cần phải nghe trực tiếp từ các đồng minh và kẻ thù của chúng ta - những
người lính Việt Nam và thường dân mà chúng ta đã chiến đấu chống lại?
Từ nhiều năm
nay, chúng tôi đã đi đến Texas, California, và Virginia để tìm hiểu nhiều người
Mỹ gốc Việt đã đến Hoa Kỳ làm người tị nạn và đã phải chịu đựng tổn thất không
thể tưởng tượng không chỉ của gia đình, bạn bè và đồng đội mà đất nước của họ.
Họ đã nói thành thật về những thất bại của chính phủ của họ, và chia sẻ những
nghi ngờ và nỗi sợ hãi của họ về việc liệu Việt Nam Cộng hòa dưới thời Nguyễn
Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ đã đáng để họ chiến đấu. "Thiệu và Kỳ, họ bị hỏng,"
Phan Quang Tuệ, người Sài Gòn, nhớ lại. "Họ lạm dụng vị trí của họ. Và họ
nhận được nhiều hơn từ Việt Nam hơn Việt Nam nhận được từ họ. Chúng tôi phải trả
một mức giá rất cao cho việc có những nhà lãnh đạo như Kỳ và Thiệu. Và chúng
tôi tiếp tục trả giá. "
Để hiểu chiến
tranh như thế nào đối với người chiến thắng, chúng tôi đã đi đến Việt Nam, trải
qua chiều dài của đất nước, gặp gỡ và phỏng vấn cựu chiến binh và thường dân.
Chúng tôi rất ngạc nhiên khi thấy rằng cuộc chiến vẫn còn chưa ổn định và đau đớn
đối với họ như đối với chúng tôi. Trong nhiều thập kỷ, họ cũng tránh nói về những
gì đã xảy ra. Bộ nhớ của giá gần như không thể hiểu được họ trả tiền trong
"máu và xương" đã được quá đau đớn. Nhưng bây giờ, khi gần cuối cuộc
đời của họ, họ muốn gia đình và thế giới biết họ đã trải qua điều gì. "Cuộc
chiến mà chúng tôi đã chiến đấu," Tướng Lò Khắc Tâm nói với chúng tôi trên
máy ảnh, "Thật khủng khiếp đến nỗi tôi không có từ để miêu tả nó. Tôi lo lắng,
làm thế nào để chúng tôi có thể giải thích cho thế hệ trẻ những gì mà cha mẹ và
ông bà đã trả? "
Đối với Bảo
Ninh, một người lính bộ binh trong quân đội Bắc Việt, người đã trở thành một tiểu
thuyết gia nổi tiếng sau chiến tranh, kể chuyện công khai chính thức kỷ niệm những
chiến thắng vĩ đại, cao quý của họ trống rỗng: "Mọi người hát về chiến thắng,
về giải phóng", ông nói với chúng tôi. "Họ sai. Ai thắng và ai thua
thì không phải là một câu hỏi. Trong chiến tranh, không ai thắng hay thua. Chỉ
có sự hủy diệt. Chỉ có những người chưa bao giờ chiến đấu tranh cãi về ai đã thắng
và thua."
Để hiểu chiến
tranh như thế nào đối với người chiến thắng, chúng tôi đã đi đến Việt Nam, trải
qua chiều dài của đất nước, gặp gỡ và phỏng vấn cựu chiến binh và thường dân.
Chúng tôi rất ngạc nhiên khi thấy rằng cuộc chiến vẫn còn chưa ổn định và đau đớn
đối với họ cũng giống như đối với chúng tôi.
Vào mùa đông năm
2015, khi chúng tôi gần đến cuối giai đoạn chỉnh sửa dự án, chúng tôi đã mời
Nguyễn Ngọc, một cựu chiến binh tám mươi lăm tuổi của Quân đội Bắc Việt (nay là
một học giả và giáo viên văn học) đi du lịch từ Đà Nẵng đến Walpole, New
Hampshire, nơi chúng tôi chiếu những phân đoạn ngắn của bộ phim và yêu cầu
ông chia sẻ suy nghĩ của mình về cuộc chiến với chúng tôi. Sau khi phản ánh về
những câu truyện mà anh nhìn thấy trên màn ảnh, anh nói với chúng tôi rằng đã đến
lúc họ phải nói; nhân dân Việt Nam, ông nói, "đang bắt đầu suy
nghĩ lại về cuộc chiến, đặt câu hỏi. Chiến tranh là cần thiết để đạt được công
lý? Nó có đúng không? Điều quan trọng nhất bây giờ là tìm ra một số ý nghĩa, một
số bài học trong chiến tranh cho cuộc sống của chúng ta."
Không có sự thật
duy nhất trong chiến tranh, vì câu chuyện khó khăn này đã nhắc nhở chúng ta ở mỗi
lượt. Mỗi người chúng ta chỉ có thể nhìn thế giới như chúng ta; chúng ta đều là
những tù nhân có kinh nghiệm riêng của chúng ta. Chúng tôi đã không đặt ra để
trả lời mọi câu hỏi được nhúng trong chương này đáng tiếc trong lịch sử. Với
tâm trí cởi mở và trái tim rộng mở, chúng tôi chỉ đơn giản cố gắng lắng nghe lời
chứng dũng cảm và trung thực của một nhóm người đàn ông và phụ nữ đáng chú ý. Nếu
chúng ta có thể tìm thấy một số ý nghĩa trong thảm hoạ tàn phá này, nó không phải
là một biện pháp nhỏ nhờ sự rộng lượng, khiêm tốn của họ và nhân loại, mà chúng
tôi rất biết ơn.
Ken Burns và
Lynn Novick
Walpole, New
Hampshire
Kim Âu phỏng
dịch
__._,_.___
Posted by: Gia Cat <
THÔNG ĐIỆP CỦA KEN BURNS VÀ LYNN
NOVICK QUA 10 ĐOẠN PHIM VỀ “CHIẾN TRANH VIỆT NAM”
Published:
09/10/2017
| By: VQ1
Bài viết này có mục đích tìm hiểu
thông điệp của hai nhà đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick qua 10 đoạn phim về
Chiến Tranh Việt Nam được trình chiếu trên đài PBS trong hai tuần vừa qua,
nhưng không đi vào chi tiết của những đoạn phim mà chỉ đưa ra một cái nhìn tổng
thể để phân tách cấu trúc chiều sâu của bộ phim. Sau phần tìm hiểu thông điệp
là phản biện lập luận của hai nhà đạo diễn này.
Cuốn phim 10 đoạn này
bao gồm một số lượng rất lớn tài liệu về chiến tranh Việt Nam được đúc kết và
dàn dựng theo một cấu trúc nhằm đánh nổi hai tiền đề: sự phi lý và tính vô luân
của cuộc chiến. Hai tiền đề này là nền tảng luận lý cho những những mục đích
sau đây:
– Công nhận và thông cảm
sự tủi nhục và niềm đau của những cựu chiến binh Hoa Kỳ và gia đình của họ;
– Đưa ra quan điểm là
người Mỹ đã chọn lầm phe để đánh giặc;
– Kết án chính quyền Mỹ
đã thực hiện một chính sách hoàn toàn sai lầm về cuộc chiến Việt Nam đưa đến
những hệ quả đau thương cho nhân dân của cả hai nước, Mỹ và Việt Nam;
– Sau cùng là biện luận
cho một chính sách hoà hợp hoà giải vì sau những đau thương đó, người từ hai
chiến tuyến đã nhận chân ra được là ai cũng đầy ắp tình người.
Hai tiền đề và bốn mục
đích nêu trên chính yếu chỉ được gửi đến cho khán thính giả người Mỹ.
Tiếp theo sau đây, tác
giả bài viết khai triển những tiền đề và mục đích nêu lên để làm sáng tỏ thông
điệp của hai nhà đạo diễn.
Về khán thính giả
Khoảng 90% những cảnh
dàn dựng trong 10 đoạn phim đều nói về người Mỹ. Đất nước Việt Nam, chính quyền
miền Nam, cũng như quân đội miền Nam chỉ được dùng như một hậu cảnh. Hầu như
tất cả những luận điểm trình bày đều nhắm đến người Mỹ.
Về hai tiền đề, phi lý
và vô luân, của cuộc chiến tranh
Cuộc chiến tranh việt
Nam được minh chứng như là một hiện tượng phi lý vì:
Đất nước Việt Nam cách
xa nước Mỹ cả 10,000 dặm. Người dân Việt Nam chỉ muốn sống yên ổn, không động
chạm đến quyền lợi của nước Mỹ. Vậy thì hà cớ gì nước Mỹ lại đưa quân vào xâm
chiếm Việt Nam và giết hại người Việt Nam; người lính Mỹ không biết tại sao họ
đánh giặc và đánh giặc với mục đích gì trong lúc họ đổ máu cho miền Nam Việt
Nam thì chính quyền miền Nam thối nát, tham nhũng; quân lính miền Nam thì hèn
nhát, bất lực, không có khả năng đánh giặc;
Trong lúc người lính Mỹ
chết cho miền Nam Việt Nam thì người Mỹ phục vụ tại miền Nam Việt Nam đều
cảm nhận là tất cả mọi người Việt Nam, Bắc cũng như Nam Việt Nam, đều ghét bỏ
người Mỹ;
Trong khi không ai cắt
nghĩa được lý do người Mỹ phải chiến đấu ở việt Nam, thì điều phi lý là cuộc
chiến đã giết đi hơn 58,000 người Mỹ và khoảng 3,000,000 người Việt, chưa kể
không biết bao nhiêu người tàn phế, thương tật cả thể xác lẫn tâm thần cùng ảnh
hưởng tâm lý tiêu cực đối với các gia đình của họ.
Cuộc chiến tranh Việt
Nam vô luân vì
Chính quyền Mỹ đã lừa
dối nhân dân Mỹ về sự thật của cuộc chiến. Một vài ví dụ điển hình là tổng
thống Johnson đưa quân vào Việt Nam mà không cho dân Mỹ biết; Nixon ra lệnh thả
bom tại Cao Mên cũng không cho dân Mỹ biết; Nixon tuyên bố với nhân dân Mỹ trận
Hạ Lào là một thành công của kế hoạch Việt Nam hoá chỉ với mục đích để thắng cử
trong lúc thực sự trận chiến Hạ Lào là một thất bại nặng nề; Nixon hứa sẽ can
thiệp nếu Bắc Việt tiến chiếm miền Nam, v.v…
Cấp tướng, tá Mỹ đã nói
láo và lừa dối chính quyền Mỹ. Ví dụ sĩ quan cao cấp nhìn thấy vụ Mỹ Lai nhưng
tảng lờ không báo cáo; các tướng chỉ huy các trận chiến ở Việt Nam phúc trình
sai lạc về kết quả của các trận đánh.
Quân lính Mỹ ăn cắp đồ
tiếp viện cho quân đội Mỹ đem ra bán tràn ngập thị trường miền Nam tạo nên một
sự phồn thịnh giả tạo tại các thành thị thúc đẩy gái quê về thành phố làm gái
giang hồ.
Cuộc chiến tranh, ngoài
việc giết đi – không có lý do chính đáng — trên 58,000 quân nhân Hoa Kỳ và
khoảng 3,000,000 lính Việt Nam, kể cả Nam và Bắc, và không biết bao nhiêu là
thường dân vô tội bao gồm cả đàn bà lẫn con nít, nhất là ở những vùng gọi là
“vùng hoả lực tự do” (free fire zones), để tính vào con số thống kê như là
những thành công về quân sự. Những hình ảnh quân nhân Hoa kỳ chết được bỏ vào
bao (body bags) la liệt; những cảnh banh thây, cụt tay, mất chân của quân nhân
Mỹ đầy dẫy. Xác lính cộng sản miền Bắc lẫn lộn với xác dân phơi tràn đầy chiến
trường, chất thành đống như súc vật. Nhất là cảnh thảm sát ở Mỹ Lai được trình
chiếu nhiều lần. Ngoài những người đã chết, còn hằng hà sa số những thương binh
tàn phế, thương tật còn chịu ảnh hưởng tác hại về tâm thần cũng như tác hại
tiêu cực đối với gia đình họ. Cái vô luân là ở chỗ tất cả những tang thương đó
đều không có cơ sở để biện minh.
Mục đích của việc nêu
lên sự phi lý và vô luân của cuộc chiến là để:
Công nhận và thông cảm
niềm đau của quân nhân Hoa Kỳ đã hy sinh một cách vô ích trong cuộc chiến. Đa
số những thanh niên Mỹ nhập ngũ – theo sự trình bày của bộ phim – là người da
đen hoặc những thành phần thuộc những gia đình nghèo. Họ không hiểu được lý do
tại sao họ phải đánh giặc ở Việt Nam. Họ chỉ biết đau khổ và rơi nước mắt khi
người bạn của họ đang ăn uống, nô đùa với họ hằng ngày bỗng nhiên phải chết đi
một cách đột ngột. Và câu chuyện này cứ liên tục xảy ra mỗi ngày, ngày
này qua ngày khác suốt 13 tháng phục vụ của họ. Gia đình của họ theo dõi cuộc
chiến từng ngày, nơm nớp lo sợ người đưa tin xấu. Những binh sĩ trở về có nhiều
người mang thương tật thể xác cũng như tâm thần như là những hội chứng hậu
chiến tranh mà phải âm thầm chịu đựng vì lúc đó nhân dân Hoa Kỳ, cũng không
thấy lý do chính đáng cho cuộc chiến, đã chống chiến tranh và gọi họ là những
tội phạm chiến tranh chuyên giết trẻ con (baby killers). Ngay những sĩ quan vừa
tốt nghiệp, mặc dù hăng say xung phong tham chiến ở Việt Nam vì họ nghĩ là họ
phục vụ quốc gia họ, nhưng họ cũng không hiểu rõ lý do tại sao họ phải tham
chiến ở Việt Nam. Nhiều người đã thất vọng và trở nên phản chiến vì cảnh chết
chóc tàn bạo mà họ đã tận mắt chứng kiến. Những hình ảnh tang thương được trình
bày trong bộ phim cũng như những phát biểu đầy xúc động của những người được
phỏng vấn đã tạo được một sự thông cảm sâu xa đối với những quân nhân này. Mục
đích của những đoạn phim là giải toả sự ấm ức của họ qua dòng nước mắt thông
cảm tình tự.
Tiếp đến là để đưa vào
tiềm thức khán thính giả việc bỏ rơi miền Nam là một việc làm đúng đắn, hợp lý,
và có đạo đức, không có gì phải mang mặc cảm tội lỗi như một số người đã từng
suy nghĩ. Biện luận cho quan điểm thầm kín này là nước Mỹ đã chọn lầm phe để
đánh giặc. Quan điểm này có nghĩa là lẽ ra nước Mỹ phải chọn miền Bắc làm đồng
minh của mình và cũng hiểu ngầm là chính quyền và nhân dân miền Nam phải là kẻ
thù của người Mỹ mới đúng. Những đoạn phim đều tản mạn ý tưởng miền Bắc thực sự
đã đấu tranh cho một lý tưởng; lính miền Bắc kiên trì, can đảm, có kỷ luật. Còn
lính miền Nam thì hèn nhát, bất lực, không có khả năng chiến đấu và chính quyền
thì tham nhũng, thối nát.
Chứng minh là nhân dân
Hoa Kỳ bao gồm cả khoảng 2 triệu quân nhân đã từng luân phiên tham chiến ở Việt
Nam chỉ là những nạn nhân vô tội, là những con dê tế thần của chính sách vô
nhân đạo của chính quyền Mỹ đã lừa dối, gạt gẫm người dân Hoa Kỳ để thoả mãn những
quyền lợi kinh tế và chính trị của tập đoàn lãnh đạo. Giới tài phiệt làm giàu
vì cung cấp quân nhu, quân dụng, võ khí, đạn dược, xe tăng, máy bay, dầu và
những tiện nghi khác cho quân đội Hoa Kỳ. Hãy tưởng tượng chỉ những vật dụng
đánh cắp từ các kho hàng quân đội cũng đủ tràn ngập thị trường miền Nam. Các
chính trị gia thì đưa ra những chính sách chỉ nhằm mục đích đắc cử, một mục
đích quan trọng hơn cả sinh mệnh của toàn dân miền Nam
Chứng minh giá trị của
tình người sau khi cuộc chiến tranh được gọi là phi lý và vô luân đã chấm dứt.
Cảnh thanh bình ở Việt Nam được trình chiếu. Những cựu chiến binh Hoa Kỳ trở
lại Việt Nam gặp những cựu chiến binh CSVN và cả hai bên đều ý hội được là cuộc
chiến thật là phi lý; ý hội được là dù là người Mỹ hay người Việt Nam cộng sản
đều cũng có dòng máu chảy trong người, đều có trái tim, đều biết khóc nức nở
cho những người bạn đã nằm xuống. Họ đã ôm nhau trong một niềm thông cảm đầy ắp
tình người mặc dù họ không hiểu tiếng của nhau và thực ra, họ không cần phải
nói một lời nào cả. Đỉnh điểm của toàn bộ 10 đoạn phim là một lời kêu gọi, “Tha
Thứ và Hoà Hợp Hoà Giải” [Forgiveness and Reconciliation].
PHẢN BIÊN NHỮNG
ĐỀ CƯƠNG CỦA 10 ĐOẠN PHIM “CHIẾN TRANH VIỆT NAM” CỦA KEN BURNS VÀ LYNN NOVICK
Trước tiên, xin đề cập
sơ qua đến việc hai nhà đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick chỉ nhắm đến khán
thính giả người Mỹ suốt toàn bộ phim 10 đoạn được trình chiếu trong 18 tiếng
đồng hồ trên đài truyền hình PBS. Nhân dân, quân đội, và chính quyền miền Nam
chỉ được dùng như một hậu cảnh với một số thời giờ rất giới hạn. Và khi cuốn
phim nói đến nhân dân, quân đội, và chính quyền miền Nam, người ta chỉ nghe
thấy phần lớn là những điều tiêu cực đáng ghét. Thái độ này không những vừa
chối bỏ sự thật vừa nhục mạ nhân dân, quân đội, và chính quyền miền Nam đã cùng
chung vai thích cánh chiến đấu bên cạnh những quân nhân Hoa Kỳ, vừa nhục mạ hơn
1 triệu rưỡi người miền Nam đã liều mạng sống vượt biên, vượt biển để tránh sự
hà khắc, gian ác của chế độ độc tài cộng sản. Đa số những người này đã định cư
tại Hoa Kỳ và đang đóng góp vào sự phát triển và thịnh vượng của quốc gia Hoa
Kỳ trong mọi lãnh vực, khoa học, y tế, giáo dục, kinh tế, chính trị, và quân
sự. Đã có rất nhiều tướng, tá người Mỹ gốc Việt trong quân đội Hoa Kỳ. Nhiều
khoa học gia đóng góp đáng kể trong lãnh vực quân sự như khoa học gia Dương
Nguyệt Ánh, trong các chương trình không gian NASA như khoa học gia Nguyễn Xuân
Vinh và rất nhiều người khác nữa.
Sau đây là phần phản
biện về hai tiền đề then chốt của bộ phim.
Lý Do Người Mỹ
Tham Chiến ở Việt Nam
Có phải người Mỹ tham
chiến ở việt Nam là phi lý vì không có lý do chính đáng cho cuộc chiến hay
không?
Thưa không phải. Trên
mặt chính thức, chính quyền Mỹ sau Đại Chiến II sợ rằng Cộng Sản quốc tế dưới
sự lãnh đạo của Nga và Tàu một khi đã xâm chiếm được Việt Nam thì sẽ tiến dần
xuống toàn cõi Đông Nam Á bao gồm Việt Nam, Lào, Kampuchia, Thái Lan, Mã Lai,
Singapore, Indosesia, v.v…và có thể lan tràn xuống cả Tân Tây Lan, Úc theo lý
thuyết domino. Và như thế cộng sản quốc tế sẽ thắng phe tự do về ảnh hưởng địa
chính cũng như quyền lợi kinh tế của Mỹ liên hệ đến giao thương ở Thái Bình
Dương. Đó là chưa nói đến giả thuyết về sự cấu kết giữa quân sự và kỹ nghệ
(Military-Industrial Complex) với mục đích làm giàu cho giới tài phiệt bằng
cách cung cấp quân nhu, quân dụng, võ khí, đạn dược, dầu xăng, xe tăng, máy bay
cũng như những tiện nghi khác phục vụ cho hơn 2 triệu quân nhân Mỹ luân phiên
tham chiến ở việt Nam. Những lý do này có chính đáng hay không là vấn đề của
người Mỹ. Trong thế giới tự do tư bản ngày nay, thực tế cho biết là nước Mỹ
không tham chiến vì mục đích lý tưởng hay vì đồng minh mà chỉ vì quyền lợi của
nước Mỹ mà thôi Nhưng quyền lợi của nước Mỹ là lý do người Mỹ chiến đấu ở Việt
Nam. Do đó, với bất cứ giá nào, chính quyền Mỹ cũng phải quyết định tham chiến.
Quân nhân và sĩ quan Mỹ không biết được lý do tham chiến là vì, hoặc huấn luyện
quân sự của Mỹ không có phần huấn luyện chính trị hoặc chính quyền Mỹ không
muốn cho họ biết lý do. Cũng có thể là người lính Hoa Kỳ biết rõ lý tưởng cao
đẹp là họ bảo vệ tự do cho nhân dân miền Nam, nhưng kỹ thuật dàn dựng bộ phim
đã biến họ thành những tác nhân vô ý thức. Không có gì chứng minh là quân nhân
Hoa Kỳ không biết lý do cao đẹp bảo vệ tự do cho miền Nam Việt Nam. Nếu họ
không biết thì tại sao các cựu quân nhân Hoa Kỳ chiến đấu tại Việt Nam cho đến
ngày hôm nay vẫn hãnh diện mang nhãn hiệu của lá cờ Việt Nam Cộng Hoà. Còn nhân
dân miền Nam Việt Nam thì hiểu rất rõ tại sao họ phải chiến đấu; họ chiến đấu
là vì họ hiểu được sự độc tài, gian ác của cộng sản và họ muốn bảo vệ tự do của
họ. Họ không muốn người cộng sản áp đặt lên họ một chính sách tàn ác, vô nhân
đạo. Hơn 1,000,000 người dân miền Bắc đã chạy trốn chế độ cộng sản khắc nghiệt
và di cư vào miền Nam năm 1954 là một bằng chứng cụ thể chứng minh điều này. Và
người dân miền Nam Việt Nam tin tưởng là nước Mỹ giúp miền Nam Việt Nam bảo vệ
lý tưởng tự do cao đẹp đó. Nếu người Mỹ và cựu quân nhân Hoa Kỳ chiến đấu tại
Việt Nam cũng đồng ý với quan điểm này và thành tâm bảo vệ quan điểm đó thì việc
tham chiến của quân đội Hoa Kỳ thực sự đã có một lý do thật chính đáng, chứ
không phải là phi lý.
Cuộc chiến Việt Nam có
mang tính vô luân hay không?
Trên thực tế, không có
cuộc chiến tranh nào là hợp đạo đức cả nếu chỉ nhìn bề mặt đau thương của sự giết
chóc. Trong lịch sử của 11 cuộc Thánh chiến chính có mục đích là bảo vệ đất
thánh, nhưng bảo vệ đất thánh chỉ là một chiêu bài. Thực tế cho biết những vị
lãnh đạo những cuộc Thánh chiến đa phần là những hoàng tử không có quyền thừa
kế nên đã tham gia cuộc chiến với mục đích cướp của để làm giàu và xâm phạm
tiết hạnh phụ nữ. Hiện tại, jihadism cũng nhân danh Allah để tàn diệt kẻ tà đạo
(infidel) mà theo tiêu chuẩn của họ là hợp đạo lý. Hãy thử thẩm định lại tính
đạo đức của những cuộc chiến tại Afghanistan, Iraq, Lybia, Syria: Bao nhiêu
người bao gồm cả những người dân vô tội, đàn bà, con nít, đã chết đi mà không
hề biết tại sao mình phải chết. Họ đã chết cũng vì các cường quốc tranh giành
ảnh hưởng địa chính và quyền lợi chính trị và kinh tế của giai cấp thống trị.
Đồng ý là cuộc chiến
Việt Nam đã gây thiệt hại nhiều nhân mạng của quân nhân Hoa Kỳ và Việt Nam, bao
gồm cả những người lính miền Bắc cũng như trong Nam và vô số thường dân vô tội,
cũng như bất cứ cuộc chiến tranh nào khác.
Tranh ảnh về chiến tranh
thường gây xúc động mạnh. Trong cuộc chiến Việt Nam, có lẽ bức hình tướng
Nguyễn Ngọc Loan bắn Nguyễn Văn Lém, tự Bảy Lốp, do Eddie Adams chụp đã gây
chấn động và bất mãn nhất trên thế giới. Ác nghiệt thay là một bức hình thường
không nói hết câu chuyện. Thực ra, lý do làm tướng Loan bắn Bảy Lốp là vì ngay
tối hôm trước y đã giết một sĩ quan cảnh sát cùng vợ và 3 đứa con nhỏ của ông
ấy mà sáng hôm sau chính tướng Loan đã tận mắt chứng kiến cảnh chết chóc thảm
thương này và Bảy Lốp còn tuyên bố là rất hãnh diện đã làm chuyện đó. Theo Điều
4 của Thoả Ước Genève 1949 thì hành động hành quyết của tướng Loan hợp pháp vì
Bảy Lốp không mang quân phục, không mang một nhãn hiệu nào minh chứng mình là
quân đội mà đã tàn sát sĩ quan VNCH và thường dân vô tội thì quân luật cho phép
trừng trị, bao gồm cả hành quyết (summary execution) như tướng Loan đã làm.
Chính Eddie Adams cũng đã xin lỗi tướng Loan tại Washington, D.C. và trở thành
một người bạn thân của tướng Loan.
Nói về lý do của cuộc
chiến tranh thì lý do chiến đấu của nhân dân miền Nam thật là chính đáng và bất
khả cưỡng vì đó là một cuộc chiến tự vệ. Người miền Nam việt Nam tin tưởng là
chính quyền Mỹ và nhân dân Mỹ cũng cùng có một lập trường như nhân dân miền Nam
trong quan điểm lý tưởng cao đẹp là bảo vệ tự do. Nhân dân miền Nam chỉ chống
lại sự xâm lăng của chính quyền cộng sản độc tài muốn áp đặt một thể chế kinh
tế và chính trị võ đoán và ác độc. Họ không có ý đồ xâm lăng miền Bắc như chính
quyền miền Bắc đã thực sự xâm lăng và cưỡng chiếm miền Nam. Họ chỉ muốn bảo vệ
cuộc sống hài hoà và sự tự do của họ và họ tin tưởng là đồng minh Hoa Kỳ cũng
giúp đỡ họ bảo vệ sự tự do này. Chiến đấu để bảo vệ tự do là chiến đấu để bảo
vệ quyền sống, quyền con người. Không thể không chiến đấu trong trường hợp này
được vì không chiến đấu là tự huỷ, và cuộc chiến đấu hoàn toàn thuận với đạo
lý, không thể là vô luân được.
Bàn về mục đích do Ken
Burns và Lynn Novick đề ra
Bẻ gãy hai tiền đề, sự
phi lý và vô luân của cuộc chiến tranh, là đánh đổ nền tảng luận lý của
bốn mục đích mà Ken Burns và Lynn Novick đã đề ra vì những mục đích đề ra chỉ
là những hệ luận của hai tiền đề phi lý và vô luân.
Tuy nhiên để làm sáng tỏ
vấn đề, về mục đích thứ nhất thì thực ra không cần ai phải lặp lại sự tủi nhục
của cựu quân nhân Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam cũng như không cần ai phải nêu
lên sự thông cảm đối với họ. Bao nhiêu là sách vở và tài liệu của các học giả
hiện nay cũng như của chính những cựu quân nhân Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam đã
rửa sạch mối nhục đó, đã hàn gắn những vết thương tinh thần của họ, và đã biến
họ từ mặc cảm của những tội phạm chiến tranh thành những anh hùng đầy kiêu hãnh.
Mục đích điều hướng tư
duy của người Mỹ vào việc chấp nhận lập trường cho rằng người Mỹ đã chọn lầm
phe để đánh giặc là một mục đích chứng tỏ sự thiếu sức mạnh trí tuệ của người
đề ra trong tiến trình suy tư. Lý do nêu ra cho lập trường này là (1) người
lính miền Bắc Việt Nam chiến đấu vì lý tưởng yêu nước, kiên trì, can đảm, và có
kỷ luật còn người lính miền Nam thì hèn nhát, không có khả năng chiến đấu, (2)
tại miền Bắc Hồ chí Minh là người tài giỏi có lý tưởng yêu nước trong lúc lãnh
đạo miền Nam tham nhũng, thối nát, và (3) tất cả người Việt bao gồm cả người
miền Nam đều ghét người Mỹ. Do đó, quan điểm của phim Chiến Tranh Việt
Nam là người Mỹ đã chọn lầm phe. Quan điểm này đưa đến loại suy tất yếu như
sau: (1) CS miền Bắc lẽ ra phải là đồng Minh của Mỹ và (2) hệ luận tất nhiên là
nhân dân cũng như chính quyền miền Nam phải là kẻ thù của người Mỹ.
Lập trường này chứng tỏ
sự thiếu sức mạnh trí tuệ ở chỗ Ken Burns và Lynn Novick không hiểu được chính
sách tuyên truyền với mục đích ngu dân (obscurantism) của chế độ miền Bắc.
Người miền Bắc phát biểu đầy tính lý tưởng bởi vì họ được nhồi sọ như vậy. Họ
được nhồi sọ một cách dối trá là Ngô Đình Diệm lê máy chém đi khắp miền Nam,
người Mỹ là những quái vật ăn thịt người và hãm hiếp phụ nữ, người lính miền
Nam Việt Nam chỉ là những người lính đánh thuê. Do đó họ được nhồi sọ là phải
giải phóng người dân miền Nam. Thực tế cho thấy là khi chạm trán với lực lượng
Mỹ và quân đội miền Nam, người lính cộng sản rất khiếp sợ, nhưng liều mạng xung
phong là con đường sống duy nhất đối với họ. Ken Burns và Lynn Novick không
biết là trong cuộc tổng tấn công Mậu thân Huế những thanh niên cộng sản đã xử
bắn trên 2005 người dân vô tội tại một trường tiểu học ở Gia Hội rồi vùi dập họ
trong những hố do chính những nạn nhân đào cho mình. Ngay sau đó, những thanh
niên này tự nhiên, vui vẻ cùng nhau đá cầu như không có chuyện gì xảy ra. Trong
cuộc chiến mùa hè đỏ lửa, CSVN đã tàn ác xích chân cứ 4, 5 đứa trẻ con từ
14 đến 16 tuổi vào một ổ súng máy để chúng không có cơ hội chạy thoát vì sợ,
khi lâm chiến. Khi vào miền Nam người cộng sản đã thấy rõ là chính quyền cộng
sản đã dối gạt họ: người miền Nam tự do và giàu có hơn người miền Bắc rất xa.
Nhưng họ không đối kháng được, ngoại trừ những trường họp lẻ tẻ, vì họ đã bị
điều kiện hoá để không thoát được cảnh áp bức thương đau (unavoidance
conditioning) trong một thời gian rất lâu.
Về việc khả năng chiến
đấu của người lính CH miền Nam cũng được đánh giá sai lạc. Toàn bộ cuốn phim
chỉ mô tả cảnh người Mỹ đánh giặc và hiểu ngầm là lính miền Nam không đánh giặc
vì hèn nhát và không có khả năng. Vậy tại sao bỗng nhiên lính Việt Nam Cộng
Hoà lại chống giữ được miền Nam từ 1969 đến 1975 sau khi Mỹ đã rút lui hơn
60% toàn bộ quân lính năm 1969. Tại sao họ có thể đẩy lui được địch quân trong
cuộc cuộc tổng tấn công quy ước trên toàn lãnh thổ miền Nam năm 1972, mặc dù
người Mỹ cho rằng nếu không có sự hỗ trợ không lực của Mỹ thì miền Nam sẽ thua?
Vậy tại sao tại Ấp Bắc, Bình Giả, Ia Drang, Dak Tô, oanh tạc của Mỹ cũng dữ dội
mà lính Mỹ vẫn thua trong lúc quân đội Việt Nam lại đẩy lui được cuộc tổng tấn
công trên toàn cõi miền Nam và tái chiếm được tiền đồn Quảng Trị? Tại sao bỗng
nhiên lại có vụ tử thủ của anh hùng Lê Văn Hưng tại An Lộc? Tại sao miền Nam
vẫn trụ được mãi cho đến tháng 4-75 sau khi Mỹ đã rút toàn bộ quân đội ra khỏi
miền Nam Việt Nam năm 1973 và quân đội VNCH hoàn toàn thiếu đạn dược, xăng nhớt
trong lúc miền Bắc được 350,000 quân Tàu chống lưng cùng với vô số vũ khí đạn
dược tối tân được tiếp viện từ Trung cộng và Nga? Tại sao trong tình trạng đó
lại vẫn có tướng anh hùng Lê Minh Đảo tử thủ Xuân Lộc trong những ngày cuối của
tháng 4-75? Tại sao quân đội miền Nam Việt Nam hèn nhát, bất lực, không có khả
năng chiến đấu mà tướng H. Norman Schwarzkopf, vị chỉ huy anh hùng trong chiến
trận Iraq khi còn làm cố vấn quân sự cho Quân Đoàn I của VNCH, đã từng tuyên bố
tướng Ngô Quang Trưởng là bực thầy của ông. Không có một lý do nào cắt nghĩa
được một quân đội yếu, hèn nhát, bất lực, thiếu khả năng lại trở nên anh dũng
trong một thời gian chớp nhoáng như thế.
Quan điểm cho rằng Hồ
Chí Minh trước tiên là một người quốc gia yêu nước; thứ đến mới là một người
cộng sản. Thực tế là nhan nhãn tài liệu ngày nay đã chứng minh rõ ràng Hồ Chí
Minh là một đệ tử trung thành của Đệ Tam Quốc Tế với một tư cách bỉ ổi đối với
phụ nữ, và tàn ác đối với nhân dân, đặc biệt trong vụ cải cách ruộng đất, nhất
là vụ đấu tố và xử tử bà Năm, người đã từng hỗ trợ, cúng vàng, nuôi cơm lãnh
đạo Việt Minh gồm có cả Hồ Chí Minh. Thế mà khi xử bà Năm, Hồ Chí Minh, theo
Trần Đĩnh, đã che râu đi xem đấu tố, rồi về viết bài “Địa chủ ác ghê!”.
Còn nếu đặt vấn đề chính
phủ miền Nam Việt Nam thối nát, tham nhũng. Thử hỏi, có chính phủ nào trên thế
giới không có tham nhũng, kể từ thời đế quốc La Mã cho đến ngày nay? Nhìn lại
chính phủ Mỹ của ngày hôm nay, người ta cũng không thể không công nhận thực tế
này. Điểm chính là vấn đề mức độ. Dù chính thể miền Nam Việt Nam có tham nhũng,
nhưng cũng không có ai thấy hay biết được nhiều giới chức cao cấp có xe hơi
sang trọng, nhà cao cửa rộng sơn son thếp vàng, trong tay có bạc triệu đô la
như những hạng công chức cấp làng, cấp xã của Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN)
ngày nay. Giới chức cao cấp Cộng sản thì có hằng tỉ đô bằng cách lấy cắp tiền
viện trợ, hối lộ tiền thầu dịch vụ của nước ngoài, bán lậu dầu thô từ ngoài
biển, trưng thu đất đai của nông dân bán lại cho các nhà đầu tư ngoại quốc,
nhất là Tàu với giá cao; con cái sang Mỹ tậu nhà bạc triệu, đi xe sang trọng,
chuẩn bị cho cha mẹ nối gót con qua Mỹ khi có biến. Ngoài ra ĐCSVN còn bắt bớ,
tra tấn những người khác chính kiến, đàn áp tôn giáo. Thế mà bộ phim cho người
phát biểu là người Mỹ đã chọn lầm phe để chiến đấu. Điều này có nghĩa là lẽ ra
người Mỹ phải chọn ĐCSVN làm đồng minh mới đúng. Thật là nghịch lý.
Lý do người Mỹ nghĩ rằng
người dân miền Nam cũng ghét người Mỹ, chẳng qua chỉ vì những phong trào chống
Mỹ do CS thẩm nhập và tổ chức, nhất là qua trung gian của hoà thượng Trí Quang,
một cán bộ nhị trùng của CSVN và của chính Mỹ dàn dựng và thúc đẩy. Nhân dân
miền Nam vẫn quý mến người lính Mỹ đến giúp họ trong cuộc chiến đấu tự vệ, bảo
vệ tự do.
Bộ phim còn có mục đích
kết án chính quyền Mỹ đã thực hiện một chính sách sai lầm khi tham chiến ở Việt
Nam và đã dối gạt nhân dân Mỹ để hơn 58 ngàn người lính Mỹ phải chết đi, trên
hai triệu quân nhân Mỹ và gia đình của họ phải gánh chịu những thương đau do
cuộc chiến tranh mà hai nhà đạo diễn cho là phi lý và vô luân, và những thương
đau mà trên 3 triệu quân nhân hai miền Nam Bắc Việt Nam đã hy sinh cùng vô số
thường dân vô tội và gia đình của họ phải gánh chịu. Kết án này cũng phát xuất
từ hai tiền đề về sự phi lý và vô luân của cuộc chiến. Trách vụ trả lời cuộc
chiến có lý do chính đáng hay không và có hợp với đạo đức hay không, trong
trường hợp này, thuộc thẩm quyền của chính quyền Mỹ. Chính quyền Mỹ đưa quân
đội Mỹ vào chiến đấu tại Việt Nam có phải là để ngăn chặn sự gian ác, độc tài
của cộng sản quốc tế hay không; có phải là để hỗ trợ cuộc chiến đấu tự vệ, bảo
vệ tự do cho nhân dân miền Nam hay không? Chỉ có chính quyền Mỹ mới trả lời
được những câu hỏi này mà thôi. Nhưng người dân miền Nam thì hoàn toàn tin
tưởng vào nhu cầu tất yếu và lý tưởng cao đẹp đó và hoàn toàn tin tưởng là nhân
dân Mỹ, nếu thấy rõ vấn đề, cũng hỗ trợ và bênh vực lý tưởng này.
Mục đích thứ tư và cũng
là mục đích cuối cùng của bộ phim là đề cao lập trường cho rằng đã đến lúc phải
phát huy tình người bằng hành động tha thứ và hoà hợp hoà giải (forgiveness and
reconciliation). Đây cũng lại là một lập trường hời hợt, thiếu suy nghĩ, không
hiểu chính sách cộng sản. Cũng rất có thể riêng rẽ từng cá nhân thì một số cựu
chiến binh cộng sản có khả năng biểu lộ tình người. Thực ra, ở mức độ nhân dân
thì không có gì phải hoà hợp hoà giải. Toàn thể người Việt Nam trong cũng như
ngoài nước đều quý mến nhau. Nhưng trong bối cảnh chung ở trong nước, mọi cá
nhân, nhất là những cá nhân đã từng chịu sự nhồi sọ của ĐCSVN, chỉ là những con
ốc của chính sách nhồi sọ độc đoán, tàn ác, vô nhân đạo của CSVN. Do đó, đừng
nhầm lẫn giữa lập trường hoà hợp hoà giải giữa người Mỹ với nhân dân Việt Nam
trong nước hay hoà giải giữa người Việt tại hải ngoại với người Việt trong nước
vì vấn đề hoà hợp hoà giải, trong trường hợp này, đặt sai chỗ và không cần
thiết, với hoà hợp hoà giải giữa người Việt hải ngoại hay người Mỹ với chính
quyền hay ĐCSVN. Đây là một vấn đề không thể xảy ra và không nên xảy ra.
Như bộ phim đã có nói
qua là quan hệ bình thường giữa Mỹ và Việt Nam là yêu cầu của chính quyền CSVN
chứ không phải yêu cầu của nước Mỹ vì CSVN có nhu cầu tham gia vào sinh hoạt
kinh tế thế giới để cứu vãn tình trạng suy sụp, bại lụn của chính sách kinh tế
chỉ huy trong những năm 80. Tuy nhiên, dù muốn gia nhập cộng đoàn thế giới, bản
chất chuyên chế, độc ác của họ không bao giờ thay đổi được. Họ vẫn thường xuyên
bắt bớ, bỏ tù, và hành hạ, tra tấn những nhà tranh đấu cho tự do, có ý kiến
ngược lại với họ. Họ vẫn thủ tiêu những người đối lập, khác chính kiến dù những
người này cùng chung một ý thức hệ cộng sản, đừng nói chi là những người không
cùng ý thức hệ. Họ vẫn áp bức nông dân, trưng thu đất của nông dân với
giá đền bù rẻ mạt để bán lại với giá cao hơn gấp ngàn lần, hay để cho Tàu đầu
tư vào những ngành kỷ nghệ tác hại môi sinh. Sự thối nát và tham nhũng của họ
gấp trăm ngàn lần những lạm dụng của thời Đệ I và Đệ II cộng hoà miền Nam. Rất
hiếm khi người ta nghe những giới chức cao cấp miền Nam có bạc triệu. Hiện nay,
người ta nghe những vị lãnh đạo có bạc tỉ đô la. Chính quyền chỉ thả một vài
người đối lập mỗi khi có trao đổi với Mỹ và sau đó lại bắt lại. Ý thức hệ của
người cộng sản là một ý thức hệ đóng, cố chấp, và không khoan nhượng, trong lúc
ý thức hệ của những quốc gia tự do là một hệ thống tự do, cởi mở, có trao qua
đổi lại hợp lý và hợp pháp. Do đó, vì tính không khoan nhượng của ý thức hệ
cộng sản, hai lập trường không thể hoà hợp hoà giải với nhau được. Cho nên trao
đổi giao thương kinh tế với nhân dân Việt Nam thực ra chỉ là giao thương kinh
tế để làm giàu và củng cố cho đảng cộng sản độc tài mà thôi.
Điểm chót tác giả bài
này muốn nêu lên là không phải người dân miền Nam muốn người Mỹ tham chiến ở
Việt Nam. Trái lại sự hiện diện của người Mỹ trên đất nước Việt Nam là một áp
đặt của người Mỹ. Từ 1954 đến 1960, Ông Diệm đã dẹp tất cả các lực lượng chống
đối do Pháp khuyến khích hỗ trợ đằng sau như tướng Nguyễn văn Hinh, Bình Xuyên.
Chính quyền Ngô Đình Diệm đã phá tan gần hết hạ tằng cơ sở của CSVN để lại miền
Nam. Ông Ngô đình Diệm chỉ yêu cầu chính quyền Mỹ hỗ trợ về kinh tế và quân
nhu, quân dụng mà thôi. Ông đã khước từ yêu cầu của chính quyền Mỹ để cho lính
Mỹ tham chiến ở Việt Nam vì như vậy sẽ làm mất đi chính nghĩa và tạo cơ hội cho
Nga Tàu tăng cường lực lượng miền Bắc. Vì không nghe theo đường lối của Mỹ,
chính quyền Mỹ đã thổi bùng sự xung khắc và tranh chấp sẵn có giữa Phật giáo và
Công giáo để tạo đảo chánh lật đổ ông Diệm với kết quả là hai anh em ông Diệm
và ông Nhu đã bị sát hại một cách tàn nhẫn. Sau khi hai ông Diệm, Nhu bị giết
thì chính quyền Mỹ đã tự động chuyển quân vào miền Nam năm 1965 mà không cần
hỏi ý kiến của chính phủ Phan huy Quát của miền Nam lúc bấy giờ. Đúng như sự
tiên đoán của ông Diệm, Nga đã tiếp tế súng ống, dạn dược tối tân cho miền Bắc
và Trung cộng đã đưa 350,000 quân vào miền Bắc để giữ hậu cần trong khi lực
lượng chính quy Việt Nam tại miền Bắc tiến quân vào miền Nam. Sau 10 năm chiến
tranh không thành công, Nixon lại tìm cách rút lui bằng chính sách Việt Nam hoá
chiến tranh Sau khi toàn bộ lính Mỹ đã rút lui mà quân đội miền Nam vẫn chống giữ
rất anh dũng trong một thời gian từ 1969 đến 1975, thời gian mà quân đội miền
Bắc đã được hỗ trợ mạnh mẽ bởi hai đàn anh Nga và Tàu. Nếu chính quyền Hoa Kỳ
Việt Nam hoá ngay từ khi Ông Diệm yêu cầu, khi mà hạ tầng cơ sở của miền Bắc để
lại trong Nam đã bị phá huỷ gần hết, khi mà quân đội miền Bắc còn yếu kém thì
hoàn cảnh đã khác hẳn. Không một người Mỹ nào phải bỏ thây trên chiến trường
Việt Nam và người Việt cũng không phải chết nhiều như vậy.
Phản biện này có mục
đích đánh đổ mọi đề cương do Ken Burns và Lynn Novick nêu lên. Lập luận của Ken
Burns và Lynn Novick, dù cho phát biểu bởi ai vì những người phát biểu đã được
chọn lọc sao cho hợp với lập trường của hai nhà đạo diễn, chỉ phản ánh giấc mơ
của những người phản chiến, yêu hoà bình (peaceniks), nhưng hoàn toàn không
thực tế, nếu không nói là sai lạc một cách thê thảm
Để kết luận bài bình
luận này, tác giả xin nhắc đến lời nhắn nhủ của M. Del Vecchio là tác hại khó
lường được của bộ phim Chiến Tranh Việt Nam là hằng ngàn khu học chánh, đại học
của Mỹ sẽ dùng bộ phim này để mài dũa những mái đầu xanh thiếu kinh nghiệm theo
một chiều hướng hoàn toàn lệch lạc, xét theo quan điểm luận lý và luân lý, và
phản lại sự trung thực của lịch sử. Cộng đồng người Việt quốc gia hải ngoại nên
tìm kế sách để chống lại ảnh hưởng tai hại này, nhất là đối với học sinh, sinh
viên Việt Nam.
Bài viết này là kết quả
của sự và thảo luận giữa Tiến Sĩ Nguyễn Văn Thái và thiếu ta Liên Thành
__._,_.___
No comments:
Post a Comment