Ở
tuổi 36, Ngô Kỷ chống cộng, Trần Kiều Ngọc chỉ "chống cái ác, không chống
cộng"
Little Saigon ngày 16
tháng 10 năm 2017
Kính thưa Quý Đồng
Hương,
Trong những ngày gần
đây, dư luận xôn xao, đặc biệt trên các diễn đàn mạng Yahoogroups,
Facebook...đề cập đến việc Bà Luật sư Trần Kiều Ngọc bên Úc Châu tuyên bố là
phong trào của bà chỉ "chống cái ác, không chống cộng," chính vì vậy
mà tôi đã bỏ một số thì giờ để tìm hiểu ngọn nguồn vấn đề. Với chủ trương
"nói có sách mách có chứng," do đó tôi không vội vàng lên tiếng, vì
tôi cần lắng nghe từ nhiều phía, cũng như tham khảo những tài liệu, phim, ảnh
cần thiết trước khi đưa ra nhận định. Cho đến nay tôi cảm thấy là những gì tôi
cần biết về sự kiện này cũng khá đủ rồi, đặc biệt sau khi tôi coi cái Youtube
do Ông Giám Đốc Calitoday Nguyễn Xuân Nam phỏng vấn Ông Nam Lộc lên tiếng binh
vực và bào chữa cho những lời phát biểu của Bà Trần Kiều Ngọc và Ông Trúc Hồ,
thì tôi nhận thấy đã đến lúc tôi cần chia sẻ quan điểm của mình ra trước công
luận.
Tôi đã có liên lạc với
Ông Giám Đốc Calitoday Nguyễn Xuân Nam để yêu cầu được có cơ hội phản biện lại
quan điểm của Ông Nam Lộc và trình bày ý kiến mình liên quan đến nhân vật Trần
Kiều Ngọc, và tôi đang chờ sự sắp xếp thời khóa biểu của Calitoday. Nếu chẳng
may mà tôi không có cơ hội trình bày ý kiến mình trên Calitoday, thì chắc chắn
là tôi cũng sẽ dùng phương tiện khác. Chờ xem!
Trong khi chờ đợi, tôi
xin chia sẻ đến Quý Đồng Hương một số tài liệu, phim, ảnh cũ liên quan đến hoạt
động chính trị của tôi vào thời gian năm 1988, lý do là tôi sinh năm 1952 (Nhâm
Thìn) tức vào năm 1988 thì lúc đó tôi 36 tuổi, bằng cái tuổi mà Bà Trần Kiều
Ngọc hiện nay. Tôi muốn nhân dịp này chứng minh cùng quý vị biết là cách đây 29
năm, vào cái tuổi 36, tôi đã công khai lên tiếng "chống cộng sản Việt
Nam" chứ không giống Bà Trần Kiều Ngọc chỉ "chống cái ác, không chống
cộng." Như vậy là tôi "khác" Bà Trần Kiều Ngọc ở điểm này.
Kính mời quý vị thưởng
lãm một số tài liệu, phim, ảnh tượng trưng mà tôi đã hoạt động vào năm 1988,
tức lúc 36 tuổi. Hy vọng sớm gặp lại quý vị.
Trân trọng,
Ngô Kỷ
(714)404-7022
Ngô Kỷ 1988
Bản dịch Việt ngữ:
BẢN KIẾN NGHỊ DO NGÔ
KỶ, ĐẠI BIỂU CỦA PHÓ TỔNG THỐNG GEORGE BUSH
TRÌNH BÀY TẠI ĐẠI HỘI
ĐẢNG CỘNG HÒA TOÀN QUỐC NĂM 1988
Thay
mặt tám trăm ngàn người Việt Nam tại quốc gia này, tôi lấy làm hãnh diện
và vinh dự làm Đại Biểu tại Đại Hội Đảng Cộng Hòa Toàn Quốc để đề cử Phó Tổng
Thống George Bush làm Tổng Thống Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Lần đầu tiên trong
lịch sử chính trị Hoa Kỳ có một người Việt Nam đại diện tại Đại Hội này đã nói
lên sự trưởng thành và sức mạnh chính trị của cộng đồng người Mỹ gốc Việt Nam,
cũng như sự lưu tâm và sáng suốt của Đảng Cộng Hòa khi để người Mỹ gốc Việt Nam
có cơ hội tham dự vào hệ thống chính trị tự do cho tất cả mọi người. Quả
thật Đảng Cộng Hòa đã làm một việc có tính cách lịch sử.
Chúng
tôi, những người Mỹ gốc Việt Nam chọn đứng cùng hàng ngũ với Đảng Cộng Hòa vì
chúng tôi có đồng quan điểm với Đảng Cộng Hòa về sự tin tưởng vào các giá trị
của tự do, tự do kinh doanh và tôn trọng dân quyền. Chính vì những lý tưởng cao
cả này mà chúng tôi đã trả giá thật đắt bằng mạng sống của hơn một triệu người
nam nữ trong cuộc chiến đấu, và sau đó miền Nam Việt Nam đã bị rơi vào tay cộng
sản năm1975.
Chúng
tôi chân thành biết ơn nhân dân Hoa Kỳ đã đón nhận chúng tôi vào mãnh đất tự do
và có nhiều cơ hội này, chính nơi đây chúng tôi có thể xây dựng lại đời sống và
đóng góp vào nền văn hóa phong phú của quốc gia vĩ đại này. Triết lý Đảng Cộng
Hòa là làm việc cần cù và tự lập được người Mỹ gốc Việt Nam thông hiểu tường
tận. Trong mười ba năm ngắn ngũi, chúng tôi đã chọn Hoa Kỳ trở thành quê hương
mới của chúng tôi, chúng tôi đạt được nhiều thành quả. Sự hội nhập đang diễn
tiến tốt đẹp, bằng chứng là đa số người Mỹ gốc Việt Nam đều có việc làm và có
đời sống tự lập, dù chỉ mới đến đây trong một thời gian ngắn. Con cháu chúng
tôi thành công vẻ vang tại học đường trong hầu hết mọi lãnh vực. Nói chung,
trong tám năm dưới sự lãnh đạo và dẫn dắt của Tổng Thống Ronald Reagan và Phó
Tổng Thống George Bush, những người Mỹ gốc Việt Nam được phát đạt về mọi mặt.
Không
còn nghi ngờ gì nữa, trong cuộc bầu cử này, những người Mỹ gốc Việt Nam sẽ bỏ
phiếu cho Phó Tổng Thống George Bush như họ đã từng liên tiếp ủng hộ mạnh mẽ
liên danh Reagan-Bush trong hai kỳ bầu cử 1980 và 1984.
Trong
những năm qua có nhiều vấn đề và chính sách quốc gia ảnh hưởng đến cộng đồng
người Mỹ gốc Việt Nam và các thân nhân họ tại Việt Nam. Được nhìn nhận là những
người tỵ nạn chính trị, người Việt Nam đang sống tại quốc gia này rất quan tâm
về viễn tượng bang giao giữa Hoa Kỳ với cộng sản Việt Nam. Bất kỳ chính sách
nào của Hoa Kỳ đối với cộng sản Việt Nam đều ảnh hưởng trực tiếp đến người Mỹ
gốc Việt Nam tại quốc gia này. Thêm nữa, chính vấn đề này, vấn đề mà toàn thể
người Mỹ gốc Việt Nam quan tâm sẽ quyết định mức độ ủng hộ tùy thuộc vào quan
điểm và sự hiểu biết của ứng cử viên. Tóm lại, trong cuộc bầu cử gay go này,
các cuộc tranh cử tại địa phương hay tầm vóc quốc gia, Đảng Cộng Hòa sẽ tiếp
tục nhận được sự ủng hộ của người Việt Nam nếu đảng này cổ xúy những vấn đề mà
cộng đồng người Mỹ gốc Việt Nam quan tâm sâu xa.
Thay
mặt Trung Tâm Người Mỹ Gốc Á Châu Đảng Cộng Hòa, và với tư cách Đại Biểu Toàn
Quốc gốc Việt Nam, tôi muốn làm sáng tỏ với tất cả quý vị Đại Biểu và Đảng Cộng
Hòa về những mối quan tâm của cộng đồng Việt Nam, và tôi đệ đạt lên Phó Tổng
Thống George Bush cùng Ủy Ban Soạn Thảo Sách Lược Đảng Cộng Hòa Toàn Quốc một
số điểm sau đây:
VẤN ĐỀ BANG GIAO VĂN HÓA VÀ NGOẠI GIAO VỚI VIỆT NAM
Trong
những tháng qua, dự kiến bang giao với cộng sản Việt Nam đã làm xao động, lo
lắng, e sợ cho khắp cộng đồng Việt Nam tại Mỹ. Sự đề xuất bang giao với Hà Nội
có lẽ là đề tài nóng bỏng và tranh cải sôi nổi nhất trong cộng đồng Việt Nam.
Đại đa số người Mỹ gốc Việt Nam chống đối bất kỳ loại trao đổi nào với cộng sản
Việt Nam dù là ngoại giao hay văn hóa với chế độ Hà Nội.
Mới
đây, Thượng Nghị Sĩ John McCain và Thượng Nghị Sĩ Larry Pressler có đệ trình
Nghị Quyết 109, kêu gọi Chính Phủ mở văn phòng trao đổi văn hóa song phương tại
Hà Nội và Hoa Thịnh Đốn. Nghị Quyết 109 biểu lộ cái quan điểm thiển cận và ngây
thơ với mục đích khuyến khích Hà Nội cộng tác hơn nữa trong việc tìm kiếm tù
binh Mỹ mất tích. Ý định của hai Thượng Nghị Sĩ Đảng Cộng Hòa này cùng với một
số vị Dân Biểu tại Hạ Nghị Viện đã tạo nên làn sóng bất mãn và hoài nghi trong
tập thể cộng đồng Việt Nam. Nghị Quyết 109 bị diễn giãi như là một bước tệ hại
đầu tiên trong việc chính phủ Hoa Kỳ tiến tới việc thiết lập bang giao với Việt
Nam trong khi có hàng trăm ngàn người Việt Nam tỵ nạn trốn chạy khỏi nước.
Đề
ra Nghị Quyết 109 là một sỉ nhục đối với tất cả những người đã hy sinh lớn lao
trong cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa cộng sản. Hơn thế nữa, hành động của các
vị dân cử Quốc Hội này đã chứng tỏ sự nhẫn tâm miệt thị lịch sử, và phủ nhận sự
hy sinh của những người tỵ nạn Việt Nam đang sống tại Hoa Kỳ, cũng như của tất
cả cựu chiến binh, mà những người này đã từng chịu đau khổ đọa đày dưới bàn tay
cộng sản.
Không
thể có việc thương thảo bang giao với cộng sản Việt Nam trong lúc này. Thừa
nhận cộng sản Việt Nam dù với bất cứ cấp độ nào cũng không thể xãy ra khi mà: Hà
Nội vẫn tiếp tục dùng vấn đề tù binh Mỹ mất tích như là một phương sách bắt
chẹt Mỹ; vẫn từ chối triệt thoái hàng trăm ngàn quân xâm lăng tại Cam Bốt; vẫn
giam cầm hàng trăm ngàn tù nhân chính trị trong các trại tập trung; vẫn
đàn áp tôn giáo có hệ thống; vẫn vi phạm các quyền căn bản của nhân dân; vẫn
bác bỏ tất cả nổ lực cải cách hệ thống chính trị trong nước; là nguyên
nhân gây ra vô số cái chết của người Việt Nam trong biển Nam Hải trên đường
trốn thoát Việt Nam đi tìm tự do.
Không
thể bào chữa được cho Hoa Kỳ, một lãnh đạo của Thế Giới Tự Do, khi đi thừa nhận
một nhà cầm quyền, mà nhà cầm quyền này khinh thường những nguyên tắc mà Hoa Kỳ
luôn cỗ võ, và nhà cầm quyền đó bất chấp tất cả lý tưởng mà nhân dân Hoa Kỳ
hằng tin tưởng.
Nghị
Quyết 109 tác hại đến lá phiếu và sự ủng hộ. Đảng Dân Chủ đã lợi dụng vấn đề
nhạy cảm này của cộng đồng để dành ảnh hưởng chính trị. Điều lo lắng nhất cho
Đảng Cộng Hòa là sẽ bị gán cho cái tội yếu đuối đối với cộng sản, cũng như đồng
lõa với chế độ tàn ác độc tài.
Thượng
Nghị Sĩ McCain và Thượng Nghị Sĩ Pressler là lãnh đạo của Đảng Cộng Hòa trên
toàn quốc hãy hủy bỏ và thu hồi lại Nghị Quyết 109, và minh xác rõ ràng lập
trường đối với cộng sản Việt Nam. Cho đến khi nào thực hiện những bước kể trên
thì mới có thể giải tỏa được sự hiểu lầm về Đảng Cộng Hòa. Sự kiện làm cộng
đồng người Mỹ gốc Việt Nam có cảm tưởng rằng họ bị phản bội cần phải chặn đứng
ngay lập tức trước khi nó ảnh hưởng bất lợi trầm trọng đến Phó Tổng Thống
George Bush. Các thái độ dứt khoát và minh bạch của những vị lãnh đạo Đảng Cộng
Hòa cần phải thực thi cấp thời nhằm tái xác nhận với cử tri người Mỹ gốc Việt
Nam rằng Đảng Cộng Hòa phản đối việc thừa nhận chế độ Hà Nội, đồng thời xác
định chính sách chống cộng mạnh mẽ cố hữu của Đảng Cộng Hòa.
VẤN ĐỀ TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ VIỆT NAM
Từ
khi Sài Gòn sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, cái chiến thắng của cộng sản
đã mang lại sự áp bức và tù đày vô số người miền Nam Việt Nam yêu chuộng tự do.
Cho đến hôm nay, cộng sản vẫn tiếp tục áp bức những người bất đồng chính kiến
bằng hệ thống đàn áp khắc nghiệt. Trên mười ba năm qua, cộng sản Việt Nam đã
trắng trợn vi phạm trầm trọng nhân quyền, và tỏ ra khinh miệt tất cả giá trị tự
do, dân chủ mà chúng ta trân quý.
Mới đây, Hà Nội lại
giam cầm hàng trăm ngàn người Việt Nam và tù binh. Theo ước tính của một số cơ
quan, có khoảng năm mươi ngàn đến bảy mươi ngàn người nam nữ đang bị giam cầm
trong các trại tù khắp nẻo Việt Nam. Con số tù nhân chính xác sẽ không bao giờ được
biết đến kể từ khi nhà cầm quyền Hà Nội liên tục từ chối thảo luận đề tài này
vì lý do an ninh quốc gia.
Nhiều
người Mỹ gốc Việt Nam có bạn bè và thân nhân bị giam cầm trong các trại tù khổ
sai này. Những bản án nặng nề, cùng với các hành động trả thù dã man của cộng
sản dành cho những người tù nhân đã được thân nhân thăm viếng tiết lộ. Trên
thực tế, ngay cả các tổ chức nhân quyền khuynh tả, Hội Ân Xá Quốc Tế đã lên án
nặng nề ban quản giáo các trại tù này là vô nhân đạo nhất. Vô số tù nhân sau khi
bị tống giam, họ không bao giờ có dịp gặp lại gia đình nữa. Rất nhiều người bị
chết vì đói khát, đánh đập, tra tấn, và thiếu thốn thuốc men. Hơn thế nữa, ý đồ
thâm độc của cộng sản là làm cho các tù nhân này chết dần mòn một cách đau đớn.
Những tù nhân chính trị
Việt Nam là chiến hữu đích thực và là đồng minh của Hoa Kỳ. Họ đang hứng chịu
sự hành hạ tàn nhẫn về thể xác và khủng bố về tinh thần chỉ vì họ quyết tâm bảo
vệ nền dân chủ. Những chiến sĩ nam nữ dũng cảm này không phải chỉ chiến đấu
chống lai bọn cộng sản nhằm bảo vệ tự do cho miền Nam Việt Nam thôi, mà hơn thế
nữa, họ đã chiến đấu để nêu cao những lý tưởng của người tự do, những người đã
cương quyết từ chối sống chung với bọn cộng sản, cũng như từ chối những giáo
điều nham hiểm và nô dịch hóa của chúng.
Trong nhiều năm qua,
chính phủ Reagan đã bền bĩ đòi hỏi và áp lực vấn đề này. Nhằm xoa dịu áp lực
của Hoa Kỳ và dư luận thế giới, cộng sản Việt Nam đã phóng thích có định kỳ một
số tù nhân. Tuy nhiên rất nhiều ngàn tù nhân vẫn còn bị giam cầm trong các trại
tù. Thời gian không còn nhiều đối với họ nữa. Mười ba năm mòn mõi đã đi qua,
những tù nhân này đã chịu đựng quá nhiều gian khổ và nhục nhã trong bàn tay
cộng sản. Các tên lãnh đạo tại Hà Nội biết là mãi cho đến bây giờ, chúng cũng
không bao giờ có thể cải tạođược những chiến sĩ anh hùng này. Không có lý
do nào để Hà Nội tiếp tục giam cầm họ dưới tình trạng quá vô nhân đạo như vậy
được.
Đây là vấn đề nhân đạo,
chính phủ Hoa Kỳ, qua Đảng Cộng Hòa và các giới chức trong chính quyền, hãy đòi
hỏi cộng sản Việt Nam phóng thích tất cả tù nhân chính trị còn lại. Để khởi
xướng cho vấn đề này, các vị lãnh đạo Đảng Cộng Hòa phải thực hiện ngay lập tức
việc áp lực nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam phóng thích những tù nhân này một
cách mau chóng và vô điều kiện. Một lần nữa, các lãnh đạo Đảng Cộng Hòa phải
hành động bằng cách áp lực giới chức cộng sản thực thi lời cam kết của Ngoại
Trưởng Nguyễn Cơ Thạch vào tháng 6 năm 1982 rằng Hà Nội có thiện chí thả
hết các tù nhân trong trại cải tạo.
Đối
với rất nhiều người Mỹ gốc Việt Nam đang sống tại quốc gia này, vấn đề tù nhân
chính trị gây nên sự xúc động mãnh liệt, và mong có giải pháp giúp đở các tù
nhân này được đoàn tụ với thân nhân họ. Để đạt cho được kết quả trong vấn đề
nhân đạo và lương tâm này, các vị dân cử cùng quý viên chức trong Quốc Hội và
Chính Phủ phải quyết liệt đòi hỏi tự do cho tất cả tù nhân chính trị Việt Nam .
CHÍNH SÁCH DI TRÚ HOA KỲ VÀ THẢM CẢNH TỴ NẠN
Gần
hai triệu người tỵ nạn đã trốn thoát Việt Nam kể từ năm 1975. Nhằm tìm kiếm tự
do, khoảng ba trăm ngàn người Việt Nam đã bỏ mình trên biển vì đói khát, đắm
chìm, và khủng khiếp hơn hết là họ bị tấn công bởi bọn hải tặc của các nước
láng giềng. Bất chấp hiểm nguy trước mắt và các rủi ro lớn lao, số người trốn
chạy cộng sản Việt Nam tăng cao. Những người Việt Nam, những nạn nhân tuyệt
vọng của chế độ độc tài này được người Tây Phương gọi là thuyền nhân.
Buồn
thay, thảm kịch xảy ra cho các thuyền nhân này không phải chỉ đương đầu với bảo
táp và hải tặc trên biển Nam Hải thôi, mà sự bất hạnh đó lại còn bị xảy ra ngay
trên phần đất của nước tạm dung thứ hai. Tại đây, những người từng được gọi là
thuyền nhân tỵ nạn đã sống sót trong cuộc hải trình đầy gian nguy, bây giờ lại
bị đối xử như khách không được mời, và bị liệt vào loại di dân bất hợp pháp.
Nhiều người này đã chờ đợi rất lâu để mong đoàn tụ với thân nhân họ tại đệ tam
quốc gia. Một số người có lẽ sẽ không bao giờ có cơ hội gặp lại thân nhân bởi
vì các nước Tây Phương gia tăng sự hạn chế nhận người tỵ nạn một cách khắt
khe.
Vừa
đây, Hoa Kỳ cho phép hai mươi tám ngàn người Việt Nam được nhập cảnh hằng năm.
Mỗi người tỵ nạn, trước khi được phép định cư tại quốc gia này, họ phải hội đủ
nhiều điều kiện gắt gao bởi Sở Di Trú và Nhập Tịch Hoa Kỳ. Số người Việt Nam
nhập cảnh Hoa Kỳ sa sút một cách thảm hại, từ 170,000 người trong năm 1979 dự
định giảm xuống còn 23,000 người vào năm 1989. Theo một số người Mỹ gốc Việt
Nam, sự giảm thiểu đón nhận người tỵ nạn này biểu lộ bước thối lui dần dần của
Hoa Kỳ trong việc giúp đở người Việt Nam trốn chạy cộng sản.
Lại
thêm tin buồn đến với người tỵ nạn Việt Nam và thân nhân họ tại Hoa Kỳ. Băn
khoăn mưu tìm giải pháp mau chóng nhằm giải quyết vấn đề thuyền nhân một lần
cho xong, các chính quyền như Thái Lan và Hồng Kông đang chủ tâm hồi hương
những người tỵ nạn trở lại Việt Nam. Kể từ đầu năm nay, khi bất ngờ số người tỵ
nạn cập bến tăng cao gấp ba lần, Thái Lan và Hồng Kông vừa công bố biện
pháp cứng rắn xua đuổi các thuyền nhân Việt Nam, bỏ mặc họ sống chết hiểm
nguy ngoài biển khơi. Hàng trăm người tỵ nạn bị chết vì chính sách tàn nhẩn và
vô nhân đạo này. Hành động dã man của Thái Lan mới chỉ là bước đầu để tiến tới
biện pháp đối đầu với cơn khủng hoảng tỵ nạn. Các quốc gia tạm dung thứ hai bây
giờ gán ép những thuyền nhân tỵ nạn này là tỵ nạn kinh tế thay vì tỵ
nạn chính trị. Sự đe dọa hồi hương đã trở thành những đám mây mù bao phủ các
thuyền nhân, và khiến cho cộng đồng người Mỹ gốc Việt Nam vô cùng quan tâm.
Hồi
hương -- dù cưỡng bách hay tình nguyện -- đều đe dọa đến cộng đồng
người Mỹ gốc Việt Nam, vì rất nhiều người có thân nhân đang kẹt ở trại tỵ nạn
và mong mõi được đoàn tụ với họ. Đối diện với việc hồi hương là mối lo sợ trực
tiếp của chính người tỵ nạn, những người này sẽ bị bỏ tù và bị trừng phạt bởi
nhà cầm quyền Hà Nội khi họ bị trả về. Khi mà những người tỵ nạn này bị rơi vào
tay bọn cộng sản, chắc chắn họ sẽ bị trừng trị và bị cáo buộc là tội phạm và
tội phản nghịch. Theo quan niệm của những người Mỹ gốc Việt Nam, việc trả các
người tỵ nạn về lại Việt Nam là giải pháp tồi tệ nhất trong kế hoạch giải quyết
tình trạng khủng hoảng tỵ nạn. Nguyên nhân của vấn đề mà những người Việt Nam
tại Mỹ cùng đồng ý là do từ phía Hà Nội.
Trái
với sự chỉ trích, trên thực tế những người tỵ nạn Việt Nam bỏ nước ra đi là vì
lý do chính trị. Thực chất họ là người tỵ nạn chính trị, họ rời bỏ quê hương
bởi vì họ không thể chịu đựng nỗi chế độ cộng sản. Cơn khủng hoảng tỵ nạn hiện
tại nói lên chính sách xã hội - kinh tế và tình hình chính trị tồi tệ tại Việt
Nam. Chế độ cộng sản bị cô lập về phương diện chính trị, và nền kinh tế đình
trệ liên tiếp. Những giải pháp cải cách trong nước và tôn trọng nhân quyền đều
bị nhà cầm quyền Hà Nội từ khước.
Sự
kiện người Việt Nam bỏ nước ra đi bởi vì họ chối từ một chế độ, mà chế độ đó
phỉ nhổ các giá trị của quyền tự do và sự tự do. Người Việt Nam trốn chạy không
phải vì họ nghèo đói, nhưng điều chính đáng nhất là vì họ không chấp nhận sự áp
bức đè nặng họ mỗi ngày. Mạo hiểm trên những chiếc thuyền mong manh đã nói lên
quan điểm chính trị mạnh mẽ nhất trong việc chối bỏ sự áp bức để tìm lấy tự do.
Những
người Mỹ gốc Việt Nam đã cố gắng đề nghị một số giải pháp hợp lý và nhân bản
hơn nhằm giải quyết cơn khủng hoảng tỵ nạn để chính phủ Hoa Kỳ thực hiện. Là
người hằng quan tâm đến vấn đề tỵ nạn, tôi mạnh mẽ ủng hộ những giải pháp được
nêu ra sau đây:
-Chính
phủ Hoa Kỳ nên tái xác nhận chủ trương tiếp nhận những người tỵ nạn ra đi từ
Việt Nam vì lý do chính trị. Sự khởi xướng của Hoa Kỳ trong việc tiếp nhận
người tỵ nạn Việt Nam sẽ gởi một thông điệp mạnh mẽ tới chính phủ các quốc gia
khác biết rằng Hoa Kỳ vẫn còn quan tâm, và cam kết giải quyết cơn khủng hoảng
tỵ nạn tại Đông Nam Á.
-Chính
phủ Hoa Kỳ nên can ngăn và từ chối tất cả đề nghị của các quốc gia khác trong
việc hồi hương người tỵ nạn về lại Việt Nam.
-Bộ
Ngoại Giao và Sở Di Trú Hoa Kỳ hãy yêu cầu Quốc Hội gia tăng chỉ số nhận người
tỵ nạn từ 28,000 người lên 64,000 người để có thể giải quyết làn sóng tỵ nạn
đến trong năm này.
-Chính
phủ Hoa Kỳ qua Sở Di Trú nên dễ dãi và thay đổi cách thức thẩm vấn một cách
thực tế hơn trong việc cứu xét từng trường hợp một của người tỵ nạn. Cần linh
động giải quyết theo từng hồ sơ.
-Chính
phủ Hoa Kỳ nên đứng ra triệu tập một hội nghị quốc tế để giải quyết cơn khủng
hoảng tỵ nạn hiện nay. Nên tổ chức các phiên họp thường xuyên với sự tham dự
của nhiều quốc gia để cập nhập hóa tình hình và đưa ra các chính sách tỵ nạn
thích ứng.
Người
Việt Nam tại Hoa Kỳ và trên toàn thế giới khẩn thiết yêu cầu các quốc gia Tây
Phương nhận thêm người tỵ nạn. Vấn đề nhân đạo phải vượt qua những tư lợi chính
trị khi giải quyết vấn đề tỵ nạn Điều lo ngại nhất của những người Mỹ gốc Việt
Nam là e rằng Hoa Kỳ sẽ rút bỏ trách nhiệm lương tâm của mình mà không còn giúp
đở những người đã từng chia xẻ các lý tưởng dân chủ cao cả. Thật là một sự bất
công và mĩa mai cho những người tỵ nạn đã liều chết trốn chạy cộng sản mà lại
bị Hoa Kỳ từ chối lắng nghe tiếng kêu gào tự do của họ. Với truyền thống cao
quý trong việc tôn trọng tự do và dân chủ, Đảng Cộng Hòa nên tích cực giúp đở
vấn đề tỵ nạn này.
Thực
thi các đề nghị nêu trên sẽ giải quyết được cơn khủng hoảng tỵ nạn, cũng như
quý vị sẽ nhận được sự ủng hộ và biết ơn của tất cả người Mỹ gốc Việt Nam .
Trân
trọng cám ơn sự quan tâm và hỗ trợ của quý vị.
Ky Ngo 1988
THE RECOMMENDATION TO
1988 REPUBLICAN
NATIONAL CONVENTION PLATFORM COMMITTEE
by KY NGO, Delegate
On
behalf of 800,000 Vietnamese in this country, I am honored and privileged to be
selected as a National Delegate to the Republican Convention to nominate Vice
President George Bush for President of the United States . For
the first time in American political history, Vietnamese representation in this
year’s convention is reflective of the growing political influence and power of
Vietnamese Americans, and the Republican Party’s wisdom in giving Vietnamese
Americans the opportunity to participate in our “free-for-all” political
system. Indeed, the Republican Party has made history.
We,
Americans of Vietnamese origin, have chosen to align ourselves with the
Republican Party because we share with the Party’s many convictions and beliefs
concerning with the values of freedom, free enterprise, and individual
security. These convictions we have paid with the lives of over 1 million men
and women who fought in the war and the subsequent lost of South Vietnam to the
communists in 1975.
We
are grateful to the American people for welcoming us to this land of freedom
and opportunities where we were able to rebuild our lives and contribute to the
rich culture of this great nation. The Republican philosophy of hard work and
self initiative is well understood by Vietnamese Americans In the 13 short
years that we have made America our new home, we were able to achieve many
things. The process of assimilation is continuing, evident in the fact that
most Vietnamese Americans have jobs and are self sufficient within a short
period of coming over here. Our children, for the most part, are performing
very well in school. All in all, during the last eight years, under the
leadership and guidance of President Reagan and Vice President George Bush,
Vietnamese Americans in this country have prospered in all areas.
Without
doubt, Vietnamese Americans in this election will vote for George Bush as they
have consistently supported the winning Reagan/Bush ticket in 1980 and 1984.
In
recent years there are many issues and national policies that affect Vietnamese
Americans and their family members living in Vietnam. Considered political
refugees, Vietnamese in this country hold dear to several policies that will
plot the future course of relations between this country and communist Vietnam.
The ramifications of any U.S. policies towards the Vietnamese communists will
have a direct effect and bearing on Vietnamese in this country. Indeed, in this
regard, the issues Vietnamese Americans unanimously care about will determine
the level of support for the candidate that reflect and understand their views.
In summary, in this crucial election, at the local and national races, The
Republican Party will continue to win Vietnamese support if it promotes the
issues that Vietnamese Americans hold dear.
On
behalf of the Headquarters and as a National Delegate of Vietnamese background,
I would like to enlighten the delegates and the Party on Vietnamese concerns,
and offer some recommendations for the Vice President and the Platform
Committee.
Cultural /Diplomatic Relations with Vietnam
In
recent months, the issue of impending relations with the communist Vietnam has
caused a great amount of furor, apprehension, and fear, from among Vietnamese
in the U.S. Proposed relations with Hanoi is perhaps the hottest and most
controversial issue in the Vietnamese community. An overwhelming majority of
Vietnamese Americans are against any type of exchanges, diplomatic or cultural,
with the communist regime in Hanoi .
Recently
Senators John McCain and Larry Pressler introduced Resolution 109, calling for
the Administration to bilaterally open a cultural office in Hanoi and
Washington , D.C. Resolution 109 is a short-sighted and ill-advised attempt to
gain Hanoi 's greater cooperation in the search for the missing American
servicemen. The two Republican senators’ intentions along with a number of
congressmen in the House, have sent a shock wave of disgust and disbelief
throughout the Vietnamese community. Resolution 109 was interprete as an
ominous first step taken by the U.S. government to establish closer tie with
Vietnam, at the expense of hundreds of thousands of Vietnamese refugees in the
exile.
The
introduction of Resolution 109 is an affront to all those who have sacrificed so
much in their fight against communism But moreover, the actions of these
members of Congress showed their callous disregard for history, and denied the
sacrifices of the Vietnamese refugees living in the U.S. and all the veterans
who have suffered at the hands of these communists.
There
should be no talks of establishing relations with Vietnam at this
time.Recognition of communist Vietnam, at any level, cannot occur when: Hanoi
continues to use the MIA/ POW issue as a blackmail device; refuses to withdraw
hundreds of thousands of its invading troops from Cambodia; continues to hold
thousands of South Vietnamese political prisoners in concentration camps;
systematically suppresses all religious; violates the basic rights of its
citizens; and rejects all efforts to reform its own political system, resulting
in the deaths of countless of Vietnamese freedom seekers in their attempt to
escape from Vietnam on the South China Sea.
There
is no justification for the U.S. as the leader of the Free World, to recognize
a government that holds in contempt the principles she champions, and disregard
all the ideals that her citizens believe in.
Damage
by Resolution 109, in terms of votes and support, has been done. The Democrats
have use this emotional issue in the community to their political advantage.
The worst fear for the Republicans is to be portrayed as weak on communism
through a self-serving desire to cozy up with an oppressive and dictatorial
regime.
Senators
Mc Cain and Pressler, as Republican national leaders, should publicly
disavow and withdraw Resolution 109, and pronounce their clear position
regarding communist Vietnam . Only when these steps are taken will there be no
more misunderstanding and misperceptions of the Republican Party. The ripple
effects of a feeling of betrayal from Vietnamese Americans on this issue must
be halted before it can be seriously hurt Vice President George Bush. Decisive
and clear actions from Republican leaders must be taken now to reconfirm with
Vietnamese American voters of the Republican Party’s opposition to recognizing
Hanoi , and the Party's strong and consistent record of opposing communism.
Vietnamese Political Prisoners
Since
the Fall of Saigon on April 30, 1975, the communist victory has brought about
widespread persecution and jailing of freedom loving South Vietnamese. To this
day, communist persecution of those who disagree with its oppressive system
continues. Over the past 13 years, they have blatantly violated every type of
human rights on the book. The communists have clearly shown their utter disdain
and contempt to all the values that we, as believers in freedom and democracy,
cherished.
Currently,
Hanoi is holding hundreds of thousands of Vietnamese and military prisoners.
According to some official estimates, there are somewhere between 50,000 to
70,000 men and women incarcerated in camps littered throughout Vietnam . The
exact number of prisoners will never be known since the Hanoi government
repeatedly refuses to discuss this subject under the pretext of internal
security.
Many
Vietnamese Americans have friends and relatives in these gulags. Charges of
cruelty and revenge by the communists have been alleged from the visiting
family members. In fact, even the left leaning human rights group, Amnesty
International, had charged that the administration of these camps is most
inhumane. An untold number of prisoners, once entering the camps, have never
seen their families again. Many have died from starvation, beatings, torture,
and the lack of medical care. Indeed, the ulterior motive of the communists, it
seems, is to orchestrate a slow and painful death for these people.
The
Vietnamese political prisoners are America 's true friends and allies. They are
presently suffering from innumerable physical and mental torture for their
devotion to the defense of democracy. These gallant men and women have not only
fought communism to defend freedom in South Vietnam, but moreover, they fought
to uphold the principles of all free men who resolutely refused to live with
the communists and their rule of terror and subjugation.
Over
the last several years, requests and pressures from the Reagan Administration
have been persistent on this issue. To placate U.S. pressure and world public
opinion, Vietnam periodically released some prisoners. There are, however,
thousands of prisoners still being held in these camps. Time is running out for
them. 13 years have passed. The prisoners have endured much hardship and
humiliation at the hands of their communist captors. The leaders in Hanoi
should know by now that they can never "re-educate" these brave
people. There is no point for Hanoi to continue incarcerating them under such
inhumane conditions.
As a
humanitarian issue, the US. government through the Republican Party and its
members inside the government, should call on the Vietnamese communists to
release all remaining political prisoners. Initiative on this issue by
Republican leaders must start now in pressuring the Vietnamese communists to
unconditionally release these people with deliberate speed. Again, Party
leaders should take actions to pressure communist officials to heed to the
statement of their foreign minister, Nguyen Co Thach, in June 1982, that Hanoi
was willing to “release individuals” detained in the re-education camps."
For
many Vietnamese Americans living in this country, the political prisoner issue
raises strong emotions, and creates a lasting resolve to have the prisoners
reunited with their loved ones. To achieve the moral high ground on this
humanitarian issue, elected legislators and ranking officials in Congress and
the Administration should seize the initiative by demanding the freedom of all
Vietnamese political prisoners.
U.S. Immigration Policy and the Refugee Crisis
Nearly
two million refugees have fled Vietnam since 1975. In their attempt to seek
freedom, an estimated 300,000 Vietnamese have perished at sea due to starvation,
drowning, and most cruel of all, attacks by sea pirates from neighboring
countries. Despite the inherent dangers and the high risk, an increasing number
of Vietnamese continues to flee Vietnam . These Vietnamese, hopeless victims of
a totalitarian government is known to the West as the "boat people."
Sadly,
the boat people tragedy is not only limited to the perils and pirates of the
South China Sea, but further extends into the refugee camps in countries of
second asylum. Here, former boat refugees who have survived the treacherous
journey, are treated as uninvited guests and classified as illegal aliens. Many
are waiting for years to be reunited with their loved ones in a third country.
Some will probably never get the opportunity to join their families because of
the increasingly tight restrictions on refugee intake from Western nations.
Currently,
the U.S. allows a ceiling of 28,000 Vietnamese refugees to enter per year. Each
refugee, before being granted permission to resettle in this country, must
satisfy a set of strict criteria set by the Immigration and Naturalization
Service. The number of Vietnamese refugees entering the U.S. has dramatically
decreased from a high 170,000 in 1979 to a predicted low of 23,000 for fiscal
year 1989. According to some Vietnamese Americans, this downward trend of
refugee intake is indicative of this country's gradual withdrawal from its
commitments to help Vietnamese fleeing from communism.
More
bad news await Vietnamese refugees and their family members in the U.S.
Anxious to find a quick solution for the refugee crisis once and for all,
governments such as Thailand and Hong Kong are seriously contemplating on
repatriating refugees back to Vietnam . Since the beginning of this year, while
receiving a sudden three-fold increase in refugee arrivals, Thailand and Hong
Kong , are currently giving "maximum emphasis" to turning away
incoming Vietnamese boat people, leaving them to their own survival
instinct on the dangerous seas. Hundreds of refugees have died from this
cruel and inhumane policy. This barbaric action taken by Thailand is only a new
beginning to a new and adverse direction in dealing with the refugee
crisis. Countries of second asylum now consider the bulk of refugee influx as
"economic migrants" rather than "political asylums." The
ominous threats of repatriation cast a dark cloud of uncertainty over the
refugees and caused much concerns from Vietnamese Americans.
Repatriation
-- either forced or voluntary -- is taken as a serious threat by the Vietnamese
community, of which many of its members still have relatives in the camps and
wish to be reunited among the refugees themselves, who will certainly face
imprisonment and retribution from the communist government once they are sent
back. Once these refugees are in hands of communists, they certainly will be
punished and labeled as criminals and traitors. In the opinions of Vietnamese
Americans, sending Vietnamese refugees back to Vietnam is the worst possible
solution to the current crisis. The source of the problem, Vietnamese in this
country agree, is in Hanoi.
The
Vietnamese refugees, contrary to allegations made by critics, fled from Vietnam
for political reasons,. They are legitimate political refugees who left their
homeland because they cannot co-exist under a communist government. The current
refugee crisis stems from the deteriorating socio-economic and political
situation in Vietnam . The communist regime is isolated politically and caught
in a perpetual economic stagnation. Domestic solutions within the country
through reforms and respect for human rights were disregarded by the Hanoi
government
The
fact remains that Vietnamese flee their own native land because they reject a
regime that debases the values of liberty and freedom. Vietnamese escape not
because they were living in poverty, but more precisely because of the
oppressive atmosphere of the country that has taken a strangle over the daily
activities of the people. Simply put, in fleeing, these people demonstrated
their strong opposition to the communism and its way of life. By risking their
life on these river boats, they have made the strongest political statement by
choosing freedom over tyranny.
Vietnamese
Americans devoted to finding a better, more humane and reasonable solution to
the refugee crisis, have raised several recommendations that this government
could take. As a refugee advocate, I wholeheartedly support the proposed
implementation of these specific steps. They are stated as follows:
- The U.S. government reconfirms its commitment to receiving refugees fleeing
for political reasons from Vietnam. U.S. initiative on behalf of Vietnamese
refugees will send a strong signal to other governments that our country is
still serious and committed to resolving the refugee crisis in Southeast Asia.
- The U.S. government discourages and rejects all proposals
from other governments to repatriate Vietnamese refugees back to Vietnam.
- The State Department
and the INS request Congress to raise the level of Vietnamese refugee
ceiling for next year from 28,000 to 64,000 in anticipation of the surge of
refugee arrivals this year.
- The US. government
through the INS, should relax and amend its refugee screening process to
realistically deal with each refugee's circumstances. The often restrictive and
unbending set of criteria of processing, whether to accept or reject a refugee
applicant, needs to be flexible enough to deal with refugees on a case by case
basis.
- U.S. Government
should take the lead in calling an international nonferrous to deal with the
current refugee crisis. Regular meetings of all the nations involved are
necessary to establish an up-to-date and consistent refugee policy.
Vietnamese
in this country and around the world are continuing to urge Western nations to
receive more refugees. Humanitarian concerns must override the self interests
of politics when dealing with the refugee issue. The worst fear for Vietnamese
Americans is that the U.S. will relinquish its moral responsibility to help
those who share the same fundamental convictions of democratic values. It would
be a grave injustice for the refugees who risk their lives to get away from
communism if the U.S. fails to hear their cries for freedom. Famous for its
championing of the values of freedom and democracy, the Republican Party can
take an active lead in the refugee issue. The steps suggested above will ease
the refugee crisis as well as winning the support and gratitude of all
Vietnamese Americans.
Thank
you for your concern and support.
Trích
lời trong lá thư Tổng Thống Ronald Reagan gởi cộng đồng người Mỹ gốc Việt
qua Ngô Kỷ vào ngày 14 tháng 9 năm 1988:
" ...Từ năm 1975,
hơn 800.000 người tị nạn chính trị Việt Nam đã định cư ở Hoa
Kỳ...Giống như nhiều nhóm di dân trước đó đi tìm kiếm nền dân chủ,
người Việt Nam đã "bỏ phiếu bằng đôi chân của mình" bằng cách
chạy trốn cộng sản áp bức...."
Thủ
bút do chính Tổng Thống Ronald Reagan ký tặng Ngô Kỷ.
Đại
Biểu Ngô Kỷ là người Việt Nam được Tòa Bạch Ốc sắp xếp
tiếp xúc với Tổng Thống Ronald
Reagan ngay tại Đại Hội Đảng Cộng Hòa Toàn Quốc New Orleans,
Louisiana năm 1988.|
Giữa
một đại hội chính trị vĩ đại 70 ngàn người gồm nội các Reagan -
Bush, 2,000 đại biểu, cùng hơn
55,000 quan khách và 15 ngàn phóng viên, ký
giả, truyền thông Hoa Kỳ và thế giới tham dự Đại Hội Đảng Cộng Hòa Toàn Quốc năm 1988 tại
New Orleans, Louisiana, một thân một mình, Đại Biểu Ngô Kỷ
giơ cao
lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ để nói lên chính nghĩa
cộng đồng người Việt tỵ nạn chống đối
mạnh mẽ cộng sản, và yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ quan tâm, cho phép các Cựu Tù
Nhân Chính Trị Việt Nam
H.O., các Thuyền Nhân Tỵ Nạn đến định cư tại Mỹ, và quan tâm đến số phận các Tù
Binh Mỹ Mất Tích.
Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ do
Ngô Kỷ giương cao trong các ngày đại hội này đã được hàng trăm đài truyền hình
thâu chiếu trên toàn quốc Hoa Kỳ và thế giới. Hình ảnh lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ
được chính phủ, nhân dân Mỹ và thế giới lưu ý và quan tâm đến kể từ lúc này.
Ngô
Kỷ đứng trước hàng trăm ống kính các hãng thông tấn, truyền hình Hoa Kỳ và thế giới tại Đại Hội Đảng Cộng
Hòa năm 1988 New Orleans, Louisiana
để tận dụng
phương tiện truyền thông đại chúng rộng lớn của họ nhằm truyền đạt những thông điệp và
nguyện vọng chính đáng của cộng đồng Việt Nam đến chính phủ, nhân dân Hoa
Kỳ và thế giới.
Đây là cơ hội ngàn vàng để Ngô Kỷ
gióng lên tiếng nói cộng đồng đến
tận các nơi khắp chốn mà không tốn đồng xu
cắc bạc nào hết, lại rất hiệu quả.
Với
uy tín và chỗ đứng chính trị, Ngô Kỷ đã xếp đặt Phó Tổng Thống George Bush đứng
sau lá cờ Hoa Kỳ và lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ VNCH vào năm 1988. Đây là một sự kiện có
tính cách chính trị rất tế nhị, nhạy cảm, và là một sự kiện rất đặc
biệt khi vị lãnh đạo quốc gia Hoa Kỳ công nhận giá trị và
sự hiện hữu của lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ VNCH.
Trong
dịp tiếp xúc với Ngô Kỷ, để bày tỏ lòng quý mến và ngưỡng mộ cộng đồng người Mỹ Gốc
Việt, Phó Tổng Thống George Bush đã cầm giơ cao lá cờ Vàng Ba
Sọc Đỏ như là công nhận sự hiện hữu của chính nghĩa Việt Nam Cộng
Hòa. Đây là trường hợp đầu tiên và duy nhất trong lịch sử, một vị
nguyên thủ quốc gia Hoa Kỳ lại trân trọng cầm giơ cao lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ Việt
Nam Cộng Hòa vào năm 1988.
Hình
ảnh này đã được hàng trăm đài truyền hình tháp tùng với Phó Tổng Thống George Bush quay
và chiếu cho khán giả Hoa Kỳ và thế giới
thấy. Hành
động này của Phó Tổng Thống George Bush là một ly nước
lạnh tạt thẳng vào mặt bọn chóp
bu cộng sản tại Bắc Bộ Phủ.
Ngô
Kỷ lấy làm hãnh diện và vui mừng khi thấy Phó Tổng Thống George Bush quan tâm và quý
mến cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản.
Đại
Biểu Ngô Kỷ tiếp xúc với PhóTổng Thống George Bush tại phi trường Los Angeles vào năm
1988. Tại đây, Ngô Kỷ lên tiếng yêu cầu Phó Tổng Thống George Bush
ban hành chính sách cứu giúp và đón nhận các Thuyền Nhân đang còn kẹt tại
các Đông Nam Á, giúp đở và đón nhận các cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam
H,O. được qua Mỹ định cư, và quan tâm đến số phận các Tù Binh Mỹ Mất Tích.
Phó
Tổng Thống George Bush đã vui vẻ
ghi nhận ý
kiến và lời đề nghị, và cam kết với Ngô Kỷ là sẽ thực
hiện các yêu cầu đó. Ngay sau khi đắc cử, năm 1989 chính phủ của
tân Tổng
Thống George Bush thực hiện ngay các yêu cầu đó.
Ngô
Kỷ cầm trên tay lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ và tấm poster Anh ngữ yêu cầu Phó Thống George Bush
ĐỪNG QUÊN “Boat People, POW - MIA, VN Political Prisoners.”
Vài
hình ảnh kỷ niệm Ngô Kỷ, tổ chức buổi lễ, và Thống Đốc George Deukmejian, trong
dịp
ông về
thương xá Phước Lộc Thọ chính thức công nhận danh xưng Little Saigon,
17-6-1988
Ngô
Kỷ (bìa trái,) và Thống Đốc George Deukmejian (giữa) trao học bổng cho học sinh
Mỹ gốc Việt ưu tú
Hình dưới: Ngô Kỷ ôm kẹp, đứng bìa phải để theo dõi buổi lễ công
nhận "Little Saigon"
Sau khi Phó Tổng Thống
George Bush đắc cử Tổng Thống vào tháng 11 năm 1988,
Thống Đốc George
Deukmejian, với tư cách Chủ tịch Ủy
Ban Vận Động Tranh Cử
cho Phó Tổng Thống George Bush tại
California gởi thư cám ơn Ngô Kỷ,
Đại Biểu của Phó Tổng
Thống George Bush và là Đồng Phó Chủ Tịch
Ủy Ban Tranh Cử
tại California đã giúp
Phó Tổng Thống George Bush đắc cử Tổng Thống.
Đại Biểu Ngô Kỷ và
Thống Đốc California George Deukmejian (đeo 2 cái badges giống nhau)
tại Đại Hội Đảng Cộng
HòaToàn Quốc năm 1988 chụp hình lưu niệm. Cả hai đều là Đại Biểu
của
Phó Tổng Thống George Bush vào năm 1988
|
Thư
của Ông Frank J. Farenkopf, Jr., Chủ tịch Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Hòa Toàn
Quốc
chúc
mừng Ngô Kỷ được mời làm Đại Biểu của Phó Tổng Thống George Bush
tham
dự Đại Hội Đảng Cộng Hòa Toàn Quốc năm 1988
YOUTUBE: Xin bấm vào Link Youtube dưới để xem Ngô Kỷ trả lời trên các đài truyền hình Mỹ, và cầm cờ Vàng, bảng
khẩu hiệu tranh đấu cho nguyện
vọng cộng đồng ngay trong buổi sinh hoạt Đại Hội Đảng Cộng Hòa toàn quốc 1988
(5 phút đầu có Ngô Kỷ
phát biểu trên các đài truyền hình Mỹ, 15 phút sau là sinh hoại sôi nỗi trong
ngày Đại Hội)
Hầu
hết cơ quan truyền thông và báo chí lớn của Mỹ trên toàn quốc Hoa Kỳ phỏng vấn,
đăng
tìn rầm rộ về việc trong lịch sử
chính trị Hoa Kỳ, Ngô Kỷ vinh dự là người Việt Nam
đầu tiên và duy nhất làm Đại
Biểu cho Phó Tổng Thống George Bush
tham dự Đảng Cộng Hòa Toàn Quốc năm
1988
Ngô Kỷ trên đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (Voice of America-VOA) 1988
Ngô Kỷ Trả Lời
Năm 1988
Hỏi: Theo anh, yêu
nước có phải là yếu tố đủ để bảo đảm hành động có lợi cho dân tộc không?
Ngô Kỷ: Yêu nước chỉ là
yếu tố cần thiết chứ chưa phải là yếu tố đủ để bảo đảm hành động đứng đắn, vì
hành động cần phải được hướng dẫn không phải chỉ bằng tình mà còn bằng lý nữa.
Những hành động yêu nước quá khích, bồng bột, mù quáng, thiển cận, hồ đồ, lố
bịch, dị hợm, bốc đồng, màu mè, chủ quan, thiếu phương pháp v.v… sẽ làm bất lợi
cho dân tộc.
Đấu tranh sai đường là
phản quốc dù yếu tố thúc đẩy do tình yêu nước chăng nữa. Lấy một thí dụ đơn
giản điển hình: Trong khi tình hình quân sự sôi động, binh sĩ đang bận bịu
chiến đấu sinh tử ngoài mặt trận, thì tại hậu phương lại xách động xuống đường,
biểu tình gây hoang mang, xáo trộn xã hội, tạo cho đặc công cộng sản có cơ hội
xâm nhập phá hoại an ninh, thì thử hỏi hành động đó có khác nào vô tình tiếp
tay cho giặc?
Tại cộng đồng Việt Nam
hải ngoại cũng có những người vì quá nhiệt tâm muốn bảo vệ, tranh đấu cho đồng
bào, nhưng không hiểu luật lệ, không nắm vững sự kiện, không nhận thức chính
xác chỗ đứng, uy tín, khả năng và sức mạnh thực sự của mình, nên đã tạo ra
những phản ứng ngược làm thiệt hại, gây tai tiếng và khiến cho cộng đồng mang
họa lây một cách oan uổng.
Tóm lại, nếu lập luận
cho rằng một hành động phát xuất từ lòng yêu nước đương nhiên là một hành động
đúng và có lợi cho dân tộc, trên thực tế không đứng vững. Đó là chưa kể có
những người yêu nước và thành tâm dấn thân đấu tranh, nhưng lại bị lợi dụng bởi
bọn chính trị gia xôi thịt, mị dân, và bị giật dây bởi một số tổ chức chính trị
đội lốt Quốc Gia nhưng lại thờ ma Cộng Sản mà không biết.
Hỏi: Anh
nghĩ gì về những người có lỗi với đồng bào trong quá khứ, nhưng nay họ thức
tỉnh và muốn đóng góp vào công cuộc đấu tranh cho dân tộc?
Ngô Kỷ: Noi theo chính
sách của Nguyễn Trãi: “Lấy chí nhân mà thay cường bạo. Đem đại nghĩa để thắng
hung tàn”, người Quốc Gia hơn Cộng Sản ở chỗ chúng ta có lương tâm, có lòng
nhân đạo, có tình cảm. Chính vì vậy mà chính phủ miền Nam Việt Nam trước kia có
chương trình “chiêu hồi”. Bởi vậy chúng ta nên cởi mở, khoan dung đón nhận
những kẻ lầm đường lạc lối, nay biết phục thiện quay về với chính nghĩa.
Cũng giống như một
người con lỡ tay làm cháy nhà, chúng ta cũng nên cho cơ hội để người con tiếp
tay dập lửa, hơn là vì giận hờn, tự ái mà lại xua đuổi chối từ. “Dụng nhân như
dụng mộc”, dùng người như dùng cây, đừng vì một chỗ mục mà bỏ cả cây to. Điều
quan trọng là chúng ta cần phải sáng suốt, khôn ngoan, tỉnh táo để phân tích và
lượng định cho chính xác mức độ “phản tỉnh” của nhân vật “hồi chánh”. Đặc biệt
trong vấn đề chính trị, cần phải rất cẩn trọng trong việc phân tích sự ăn năn,
hối lỗi đó là chân thành hay giả trá, thiện chí hay gian tâm.
Hỏi: Anh có nghĩ những
người lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm tốt không?
Ngô Kỷ: Tôi học hỏi rất
nhiều nơi quý vị cao niên và các bậc đàn anh. Tôi luôn kính trọng và biết ơn về
những sự chỉ giáo và các cao kiến của họ. Thỉnh thoảng xui xẻo tôi mới gặp vài
ba người làm tôi thất vọng thôi Casson nói về họ như sau: “Có thể khắc trên mộ
bia của nhiều người câu này: Chôn lúc 60 tuổi, nhưng đã chết từ lúc 30 tuổi”.
Hỏi: Anh có ý kiến gì
về truyền thông, báo chí Việt ngữ tại hải ngoại?
Ngô Kỷ: Là một người tỵ
nạn sống ở xứ người, tôi muốn bày tỏ sự biết ơn sâu xa đến người làm truyền
thông báo chí Việt ngữ, những chiến sĩ văn hóa. Nếu không có quý vị này, văn
hóa Việt Nam đã bị khủng hoảng một cách trầm trọng. Truyền thông báo chí là
phương tiện hữu hiệu nhất trong việc bảo vệ Cộng Đồng trước những sự tranh
chấp, kỳ thị bởi những sắc dân địa phương hay chính quyền.
Làm truyền thông, báo
chí là hướng dẫn dư luận, nhìn một người đọc một tờ báo nào, nghe một đài phát
thanh nào, xem một băng tần truyền hình nào là biết được phẩm cách và giá trị
của người đó. Làm truyền thông, báo chí không phải chỉ để mưu sinh,
mà lại còn là một thiên chức nữa, vì: “Làm thầy thuốc mà sai lầm thì giết một
người, làm chính trị mà sai lầm thì giết một nước, làm văn hóa sai lầm thì giết
cả một thế hệ”. Chính vì vậy mà vua Quang Trung đã nói: “Ngòi bút của Ngô Thời
Nhiệm có sức mạnh bằng hai chục vạn quân”.
Truyền thông, báo chí
Việt ngữ cũng có những khuyết điểm. Có những bất cẩn, sai sót kỷ thuật một cách
vô tình, nhưng cũng lại có những hành động phản đạo đức, như: hù dọa, tống
tiền, trả thù cá nhân một cách cố ý. Tôi không quan tâm lắm về các khuyết điểm
của giới truyền thông, báo chí Việt ngữ trong vấn đề chuyên môn hay đạo đức, vì
chính độc giả và khán thính giả là những người có đủ tư cách để bày tỏ thái độ,
phản ứng. Tôi chỉ chú trọng đến quan điểm chính trị và sẵn sàng phản đối lại bất
cứ cơ quan truyền thông, báo chí Việt ngữ nào “ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng
Sản”, đâm sau lưng cộng đồng tỵ nạn, phản bội dân tộc.
Hỏi: Có nên giải tán
những tổ chức đơn lẻ để sát nhập vào những tổ chức tiếng tăm của những người
tai to mặt lớn không?
Ngô Kỷ: Đoàn kết là tốt
vì hợp quần gây sức mạnh. Tuy nhiên đoàn kết để làm đạo tặc, phản dân hại nước
thì đó là một bất hạnh cho đất nước và là mối nhục lớn cho cộng đồng. Alain đã
hỏi: “Đoàn kết làm thành sức mạnh. Đúng, nhưng tạo thành sức mạnh ấy cho ai?”.
Hơn nữa, mỗi tổ chức có riêng một mục đích và phương cách hoạt động. Alfred de
Musset có nói: “Cái ly của tôi bé, nhưng tôi uống bằng cái ly của tôi”. Thử hỏi
có gì bảo đảm những tổ chức đông đảo người quyền cao chức trọng là giúp ích
được nhiều cho quê hương dân tộc? Đối với tôi, dù một cánh én không làm nên mùa
Xuân, nhưng cánh én vẫn làm bầu trời xinh đẹp hơn một bầy kên kên. Ngạn ngữ Á
Rập có câu: “Một nắm ong có giá trị hơn một túi ruồi”.
Hỏi: Anh nghĩ gì về
những người thường lớn tiếng hô hào xây dựng cộng đồng, giải phóng đất nước?
Ngô Kỷ: Thùng rỗng thường
kêu to, và Charle Péguy đã nói: “Tôi không bao giờ phán đoán một người theo
những điều người ấy nói, mà chỉ xét theo cái giọng người ấy nói thôi”. Việc xây
dựng cộng đồng và giải phóng đất nước không phải một sớm một chiều, mà cần phải
đóng góp thực tế và dấn thân cụ thể, chứ không phải chỉ lý thuyết suông. Dan
Bennett nói: “Hàng triệu người muốn sống trăm năm, nhưng họ không biết làm gì
cho khỏi chán trong một ngày Chủ Nhật mưa gió”.
Hỏi: Giúp cho đảng
Cộng Hòa và Tổng Thống George Bush trong kỳ tranh cử 1988 vừa qua, anh có lợi
lộc gì không?
Ngô Kỷ: Trên đời này,
không ai làm điều gì mà không nghĩ đến cái lợi cả. Kẻ nào nói khác đi thì quả
là kẻ nói xạo và mị dân. Tuy nhiên có nhiều cái lợi khác nhau: nịnh trên đè
dưới để vinh thân phì gia cũng là cái lợi, nhân danh phục vụ cộng đồng lấy tiền
bỏ túi cũng là cái lợi, bố thí để con cháu được hưởng phước cũng là cái lợi,
tụng kinh đi Lễ để mong được lên Niết Bàn, Thiên Đàng cũng là cái lợi, tần tảo
khổ cực nuôi con ăn học thành danh để hãnh diện với đời cũng là cái lợi v.v…
Điều khác nhau là lợi
một cách quang minh hay bất chính, lợi vật chất hay lợi tinh thần. Riêng tôi
tạo cơ hội đưa cho Tổng Thống George Bush cầm giơ cao ngọn cờ Vàng Ba Sọc Đỏ
trước hàng trăm ống kính thế giới, và đạo đạt được những nguyện vọng chính đáng
của đồng bào đến chính phủ Hoa Kỳ, đó cũng là cái lợi lớn lao đối với tôi.
Hỏi: Anh nghĩ thế nào
là Cộng Sản? Thế nào là Quốc Gia?
Ngô Kỷ: Lúc nhỏ tôi nghĩ
người Cộng Sản là người ở miền Bắc, người Quốc Gia là người ở miền Nam, nhưng
Digest Catholique định nghĩa một cách rộng rãi và sâu sắc hơn: “Người Cộng Sản
là người ăn cái bánh mình mà còn thích ăn bánh bạn nữa”. Và Bosh định nghĩa:
“Người Quốc Gia chân chính là người đứng trọng tài vô tư giữa các tham vọng của
mình và công ích”.
Hỏi: Theo anh ai là
người đủ tư cách để xây dựng cộng đồng, giải phóng đất nước?
Ngô Kỷ: Bất cứ người Việt
Nam chân chính nào cũng có thể làm điều đó. Điều đáng quan tâm là chúng ta nên
thận trọng đừng để những kẻ hèn nhát, đốn mạt, bỉ ổi có cơ hội mưu đồ phản dân
hại nước thêm một lần nữa. Hàn Phi Tử có nói: “Đem xương trừ kiến, kiến lại
càng nhiều. Lấy cá đuổi ruồi, ruồi lại càng đến”.
Hỏi: Được tiếp xúc và
làm Đại Biểu của Tổng Thống George Bush, anh có cho đó là một vinh dự không?
Ngô Kỷ: Có chứ, đó là kỷ
niệm đẹp trong đời. Tuy nhiên tôi không cho đó là việc quá quan trọng, vì
Ansari de Hérat có nói: “Nếu anh có thể đi trên mặt nước, anh đã có gì hay hơn
một cộng rơm?, nếu anh biết bay liệng trên không trung, anh đã có gì hay hơn
một con ruồi?. Nếu anh biết tự chế ngự tâm hồn anh: anh mới quả là nhân vật”.
Hỏi: Công cuộc đấu
tranh của cộng đồng Việt Nam có nên đặt quá nhiều tin tưởng và hy vọng vào sự
hỗ trợ của chính phủ Hoa Kỳ không?
Ngô Kỷ: Người Mỹ
từng nói: “Nước Mỹ không có bạn suốt đời, mà cũng không có kẻ thù muôn kiếp.
Chỉ có quyền lợi nước Mỹ trên hết”.
Năm
1975, mọi người đều thừa biết là miền Nam Việt Nam sụp đổ không phải vì dân
chúng thiết tha cái chủ nghĩa Marx-Lenin gian ác bạo tàn, cũng không phải vì
quân lực Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu không anh dũng hào hùng. Chúng ta không
thất trận tại chiến trường Việt Nam , nhưng chúng ta thua giặc ngay tại chính
trường Hoa Thịnh Đốn.
Không có vị tổng thống
Mỹ nào dù thuộc đảng Cộng Hòa hay đảng Dân Chủ lại yêu thương đất nước Việt Nam
bằng chính người Việt Nam . Không có thượng nghị sĩ Mỹ nào dù diều hâu hay bồ
câu lại quan tâm đến tự do, dân chủ, nhân quyền cho 75 triệu đồng bào Việt Nam
bằng chính người Việt Nam . Không có dân biểu Mỹ nào dù bảo thủ hay cấp tiến
lại lo lắng an sinh xã hội SSI cho các cụ cao niên Việt Nam bằng chính người
Việt Nam . Không có ngoại trưởng Mỹ nào dù đàn ông hay đàn bà lại xót xa thảm
cảnh thuyền nhân tỵ nạn Việt Nam bằng chính người Việt Nam v.v… Hiểu như vậy để
chúng ta cần phải dè dặt và cẩn thận khi đặt quá nhiều hy vọng nơi chính phủ Mỹ.
Là công dân Mỹ gốc
Việt, chúng ta có quyền đòi hỏi chính phủ Hoa Kỳ đáp ứng nguyện vọng của người
công dân Mỹ gốc Việt, miễn là không đi ngược lại hoặc làm thiệt hại quyền lợi
của nước Mỹ. Cuộc đấu tranh chống Cộng Sản Việt Nam phải do chính những người
dân Việt Nam chúng ta chủ động và quyết định. Sự hỗ trợ từ phía Hoa Kỳ hay từ
một số quốc gia ngoại quốc là điều cần thiết, tuy nhiên phải coi là đồng minh
phụ thuộc mà thôi. Muốn giữ được mối tình đồng minh lâu dài và tôn trọng lẫn
nhau, chúng ta phải biết cách xử thế một cách sòng phẳng, lưỡng lợi và thực tế.
Hỏi: Anh có nghĩ là
độc tài và cao ngạo khi anh làm việc mà anh chẳng mời một ban cố vấn, chỉ đạo
nào cả?
Ngô Kỷ: Tôi nghĩ là mọi
người trong cộng đồng đều có khả năng làm cố vấn cho tôi trong công việc chung,
do đó tôi không thấy cần thiết phải lập một ban cố vấn đặc biệt. Thêm vào đó,
Tào Bao Truyện có viết: “Làm nhà bên đường mà gặp ai cũng bàn thì ba năm cũng
không xong”. Trước khi bắt tay làm việc, tôi đã vạch sẵn con đường, lấy chính
nghĩa quốc gia dân tộc làm chỉ đạo, lấy tự do hạnh phúc của toàn dân làm cứu
cánh, bởi vậy tôi không thấy cần thiết kiếm người chỉ đạo.
Hỏi: Muốn thành công
trong công việc, phải làm gì?
Ngô Kỷ: Tổng Thống
Lincoln khuyên rằng: “Muốn thành công trên đời phải khởi sự làm những điều mà
mình thường khuyên bảo kẻ khác”.
Hỏi: Anh có phải là
lãnh tụ cộng đồng không?
Ngô Kỷ: Có nhiều người
tài đức hơn tôi để làm điều đó. Tôi chỉ là một thành viên nhỏ bé trong tập thể
người Việt tỵ nạn lớn lao mà thôi.
Hỏi: Theo anh nghĩ
công việc quan yếu trong việc cứu người dựng nước phải làm thế nào?
Ngô Kỷ: Có nhiều việc
phải làm, nhưng điều trước tiên ta phải tự cứu mình dựng mình. Raniel Rops nói:
Chỉ có những người đã từng chấn hưng đạo đức ở chính họ mới có thể lãnh việc
chấn hưng xã hội”.
Hỏi: Có một số nhân
vật trong cộng đồng bảo rằng anh là người trong bụi chui ra, trên trời rớt
xuống, anh nghĩ thế nào?
Ngô Kỷ: Đây là một xứ dân
chủ tự do, đặc biệt tự do ngôn luận, do đó tôi luôn tôn trọng lời phát biểu của
họ.
Hỏi: Anh thấy người
Việt Nam ta có nhược điểm gì?
Ngô Kỷ: Tôi không đủ tư
cách và kiến thức để phê phán vấn đề này. Tôi chỉ có thể trích lại một số điều mà
nhà cách mạng Phan Bội Châu đã phân tích, đó là: “tính ỷ lại, lòng giả dối,
thói nhút nhát, tham lợi riêng, mê tín dị đoan, đua những việc hư danh vô vị,
không thực lòng yêu nước, không biết nghĩa hiệp quần, không thương nòi giống
v.v…”
Hỏi: Anh nghĩ gì về sự
xung đột giữa hai thế hệ già và trẻ?
Ngô Kỷ: Lý do có sự xung
đột là vì: Người già quan niệm: “kính lão đắc thọ, bán tự vi sư, áo không mặc
qua khỏi đầu v.v…”. Người trẻ thì lại nghĩ rằng: “hậu sinh khả úy, tre già măng
mọc, con hơn cha nhà có phúc v.v…” Do đó muốn tạo được sự cảm thông và quý trọng
nhau giữa hai thế hệ, cần phải có một “tâm hồn trẻ”.
Hỏi: Anh đang làm việc
trong một hoàn cảnh cô đơn, eo hẹp, liệu có mang lại kết quả gì không?
Ngô Kỷ: Còn nước còn tát.
Người xưa có câu: “Đừng vì lẽ mình không thể là một ngôi sao mà đành cam chịu làm
một đám mây mù”.
Hỏi: Đến được nước Mỹ,
anh đã thấy mãn nguyện chưa?
Ngô Kỷ: Tôi lấy làm vui
mừng khi đến được mãnh đất tự do này. Tuy nhiên điều đáng kể trong đời không
phải là miếng đất chúng ta đang đứng, mà chính là cái hướng chúng ta đang nhắm để
đi”.
Hỏi: Anh nghĩ gì những
người ưa chỉ trích?
Ngô Kỷ: Đối với tôi, chỉ
trích trong tinh thần xây dựng là một điều đáng khuyến khích.Chính Lippman đã
nói: “Khi tất cả mọi người đều đồng ý tức là không có ai suy nghĩ kỹ cả”. Không
một người nào mà không có khuyết điểm, “nhân vô thập toàn”. Muốn tiến bộ, muốn
thành công phải nghe người khác chỉ trích. Oscar Wilde có nói: “Đối với một
người cũng như đối với một quốc gia, sự bất mãn là bước đầu để đi đến tiến bộ”.
Tuy nhiên, sự chỉ trích
phải nằm trong tinh thần xây dựng. Chỉ trích một cách bừa bãi, thiếu ý thức
chắc chắn không được chấp nhận. Có một số người coi sự chỉ trích như một thú
tiêu khiển, họ chỉ trích vấn đề mà không đưa ra phương cách giải quyết, miệng
bảo là sai nhưng hỏi sai chỗ nào thì lại không biết, phê bình người khác làm
xấu, nhưng hỏi làm thế nào để tốt hơn thì họ cũng lại không biết.
Cavallier đã kết luận:
“Những người ưa chỉ trích là những người quen ngồi trong phòng giấy, không phải
là người hoạt động, họ không hiểu nỗi khó khăn trong khi hành động, vì thế họ
dùng óc thông minh và tài châm biếm của họ để chỉ trích công việc làm của người
khác”.
Hỏi: Anh có tôn trọng
quyền phát biểu của người khác chính kiến và khác quan điểm với anh không?
Ngô Kỷ: Tôi quý tự do, do
đó tôi luôn tôn trọng tự do của người khác. Mỗi người đều có quyền hành xữ
quyền tự do của mình trong luật định. Muốn thu phục nhân tâm, chúng ta cần phải
dùng lý luận vững chãi và cái tâm trong sáng để thuyết phục đối phương. Đừng
làm họ sợ, mà phải làm sao cho họ “khẩu phục, tâm phục” thì mới gọi là thành
công Tôi muốn sống theo tư tưởng của Voltaire: “Tôi không đồng ý quan điểm anh,
nhưng tôi tranh đấu tới chết để bảo vệ cho anh được nói ra điều anh muốn nói”.
Hỏi: Anh có sợ người
ta châm biếm nói xấu không?
Ngô Kỷ: Nếu sợ thì tốt
hơn hết đừng là gì cả, đừng nói gì cả, và đừng làm gì cả. Trong Chiến Quốc Sách
có câu: “Người đi đêm tuy không phải gian nhưng không thể cấm chó cắn”. Khi làm
một việc đúng với lương tâm thì sợ gì lời ra tiếng vào. Đâu phải ai bị chó sủa
đều là những người ăn trộm cả sao. Ngạn ngữ Á Rập có câu: “Nếu mỗi khi anh nghe
chó sủa mà anh dừng chân lại thì không bao giờ anh đi suốt đường”.
Đương đầu, đụng chạm
với Việt cộng, Việt gian, mình sẵn sàng chấp nhận mọi khó khăn, nguy hiểm vì
chúng là kẻ thù. Nhưng cái đắng cay, cái đau thấm thía và nghịch lý nhất là
chính những người nhân danh Quốc Gia lại đâm sau lưng mình. Charles Kingsley đã
than: “Không phải những chông gai trên đường đi đã làm đau chân anh, mà chính
cái hột cát nho nhỏ trong chiếc giày anh mang”.
Hỏi: Nếu
có một số
người không đồng ý hay không tán đồng những quan điểm, ý kiến của anh, anh có
buồn không?
Ngô Kỷ: Không. Chúa Giê
Su là đấng toàn năng, quyền uy, thông minh sáng láng vô cùng, thế mà còn bị
người ta khinh miệt và đóng đinh Ngài trên cây Thập Tự Giá. Còn Đức Phật Thích
Ca thì đạo hạnh, từ bi hỉ xã, quán triệt siêu việt như vậy, thế mà còn bị trêu
ghẹo, mỉa mai, xỉa xói, thế thì tôi chỉ là con người phàm phu tục tử, đầu óc bé
tí thì có đáng gì đâu để có đủ tư cách đi hy vọng nhiều nơi sự đồng ý của thiên
hạ.
Ngày xưa, Bá Nha cho
mình may mắn khi gặp được người bạn tri kỷ duy nhất trên thế gian là Tử Kỳ,
thấu hiểu và thông cảm được tiếng đàn của mình, thế thì nếu trong số 2 triệu
người Việt tại hải ngoại và 75 triệu đồng bào trong quốc nội, mà tôi có được 2
người đồng ý và tán đồng ý kiến của tôi, thì quả là tôi có phước và được hạnh
phúc hơn Bá Nha lắm rồi.
Hỏi: Tư tưởng và nhận
định của anh đưa ra có thể không thuyết phục được một số người, anh có thất
vọng không?
Ngô Kỷ: Không. Vào thế kỷ
16, nhà thiên văn Galileo Galilei ở Ý Đại Lợi khám phá ra sự kiện quả đất quay
quanh mặt trời, hay nói cách khác là quả đất hình tròn, thế mà bị giáo hội La
Mã kết án “nói bậy” và đòi xử tử. Sau này thì thế giới mới công nhận, và mãi
cho tới thời gian gần đây thì giáo hội La Mã mới chính thức tuyên bố nhận xét
của ông Galileo Galilei là xác đáng, và không còn cho ông là theo tà giáo nữa.
Còn ông Nguyễn Trường
Tộ đi sứ Tây phương về, và tâu lại là thấy cái đèn chúc ngược đầu mà vẫn sáng,
ý kiến của ông suýt nữa bị vua Tự Đức chém đầu về tội “khinh quân, nói xàm”. Và
bây giờ thì mọi người đều thấy cái bóng đèn điện chúc đầu xuống đất.
Kể vài sự kiện điển
hình như vậy, để chứng minh rằng việc muốn người khác tin theo nhận xét hay ý
kiến của mình không phải là một việc dễ dàng dù rằng mình đúng, mà cần phải tùy
theo trình độ, kiến thức mỗi người, hoàn cảnh xã hội, và yếu tố thời gian.
Hỏi: Cộng đồng người
Việt tỵ nạn đang tranh đấu cho quê nhà, anh có tiếp sức không?
Ngô Kỷ: Có chứ. Tôi cố
gắng tối đa tiếp tay cho công việc quan trọng như vậy. Tuy nhiên, song song đó
chúng ta cần phải mạnh mẽ chống đối và tiêu trừ bọn cộng sản nằm vùng và bọn
Việt gian tại hải ngoại. Nếu chúng ta khiếp nhược, không dám đương đầu, và
không thắng được bọn chúng ở đây, thì làm sao chúng ta có thể nói đến chuyện
giải phóng đất nước hay giải thể đảng cộng sản, hay giật sập Bắc Bộ Phủ bên kia
Thái Bình Dương, cách xa xôi 10 ngàn dặm. Bao giờ cũng cần nên thực hiện những
việc thực tế và trong tầm tay trước khi tính đến chuyện “đội đá vá trời”. Chỉ
có những kẻ “mộng du” và “người đi trên mây” mới bàn đến những chuyện hão
huyền, không thực tiển.
Trong đấu tranh, tôi
rất khinh tởm và chán ghét bọn chính trị gia xôi thịt, bọn treo đầu dê bán thịt
chó, đầu voi đuôi chuột, đánh trống bỏ dùi, khoát lác, lố lăng, dị hợm. Bọn này
chỉ khoát lớp áo Quốc Gia để mưu cầu tư lợi, đi đêm đi ngày với Việt gian để
vinh thân phì gia, phá nát cộng đồng.
Hỏi: Tại sao mười lăm
năm qua cộng đồng Việt Nam hải ngoại chưa có được một lãnh tụ hay một tổ chức
nào được sự hợp tác, ủng hộ mạnh mẽ của đồng bào?
Ngô Kỷ: Tôi xin được dùng
câu chuyện của Aldoux Huxley để trả lời câu hỏi này:
“Một bữa nọ, vương tước
Ibrahin đang ngồi trong đền, bỗng nghe tiếng người chạy trên mái nhà, Ngài tự
hỏi: “Ai lại dám dẫm chân trên nhà trẫm?”, và Ngài hét to lên: “Ai đi đó?”. Bọn
hầu cận khép nép thưa: “Thưa lệnh Ngài, chính chúng con đi tuần phòng và đang
đi tìm…”, Ngài hỏi: “các người tìm gì?”, bọn hầu cận đáp: “Thưa tìm những lạc
đà”. Ngài nói: “Có ai lại đi tìm giống lạc đà trên mái nhà?”, bọn hầu cận đáp:
“Chúng con noi gương Ngài. Ngài đi tìm sự hòa hợp với Thần Thánh, nhưng Ngài
lại an vị trên ngai vàng”.
Hỏi: Anh có cho rằng
những người lãnh đạo quốc gia và những viên chức trong chế độ cũ là có tội với
đồng bào, đất nước không?
Ngô Kỷ: Xã hội nào, chế
độ nào, đất nước nào cũng có kẻ tốt người xấu. Tôi không phải là quan tòa, mà
cũng không phải Thượng Đế, do đó tôi không thể xét đoán ai cả trừ khi tôi có đủ
bằng chứng xác thực, rõ ràng, minh bạch. Victor Hugo nói rằng: “Anh không phải
là một sử gia thì đừng dành để quá nhiều thì giờ nghĩ lẩn quẩn những việc đã
qua”.
Hỏi: Anh giúp người
này người nọ, anh có nghĩ là anh bị họ vắt chanh bỏ vỏ không?
Ngô Kỷ: Tôi làm bất cứ
điều gì cũng chỉ vì tôi thích làm mà thôi. Tôi không bon chen và cũng chẳng có
tham vọng gì cả. Tôi tham gia vào các sinh hoạt không nhằm mục đích mưu sinh
hay kiếm cái job để lòe thiên hạ. Tôi sống rất an phận thủ thường. Trong Kinh
Dịch có viết: “Đức nhỏ mà địa vị cao, trí cạn mà mưu sự lớn mà không gặp họa là
ít thấy vậy”.
Hỏi: Anh dấn thân làm
việc, anh có trông mong được nổi tiếng không?
Ngô Kỷ: Trông mong được
đồng hương quý mến thì có, nhưng tôi chẳng bận tâm đến tiếng tăm. Kinh nghiệm
cho thấy những ông lãnh tụ nổi tiếng, danh vọng ngày xưa bây giờ còn lại những
gì? Hiểu được triết lý Lữ Khôn: “Con voi vì ngà, ve sầu vì tiếng, đom đóm vì
sáng mà hại thân, người biết yên thân không quý gì rực rỡ”.
Hỏi: Hễ mỗi lần trong
cộng đồng thành công hay đạt được kết quả tốt thì lại có người nhảy ra tranh
công, anh nghĩ thế nào?
Ngô Kỷ: Jacob A Rigs có
nói đến một câu chuyện:
“Có người đập cả trăm
nhát búa mà đá cũng chưa rạn nứt, nhưng khi đập đến lần thứ 101 thì tảng đá vỡ
làm đôi, như vậy, phải hiểu rằng không phải nhát búa cuối cùng đã làm cho tảng
đá vỡ mà chính là tất cả những cố gắng của anh ta từ trước”.
Chuyện cộng đồng mình
cũng vậy, nếu có được kết quả tốt nào thì chính là do sự cố gắng, đóng góp,
tranh đấu của nhiều người, nhiều tổ chức trong thời gian dài, chứ không phải do
một người, một nhóm, một ngày mà làm được.
Hỏi: Có câu: “Con vua
thì lại làm vua, ba đời sãi chùa chỉ quét lá đa”, câu này còn thích hợp với
thời đại này không?
Ngô Kỷ: Ngày nay có biết
bao nhiêu cảnh: “Cha làm thầy, con đốt sách”, nhưng cũng lại có: “Cây đắng mà
sinh trái ngọt”. Bởi vậy sự ỷ lại vào hào quang quá khứ đã lỗi thời, vì: “Cam
trồng xứ Nam ngọt, nhưng trồng xứ Bắc chua”.
Hỏi: Anh nghĩ gì về
những người nhân danh trí thức nhan nhản trong cộng đồng?
Ngô Kỷ: Danh từ trí thức
đã bị một số người tiếm nhận một cách vô liêm sỉ. Tôi chia những người có học
ra làm 2 loại: trí thức và khoa bảng. Tôi quý trọng những người trí thức vì họ
đã bỏ công khó nhọc học hỏi để có được một số kiến thức hầu dùng sự hiểu biết
đó phục vụ cộng đồng, xây dựng xã hội và đóng góp cho quê hương. Trái lại,
những kẻ khoa bảng thì lòe cái nhản bằng cấp để lường gạt đồng bào, làm xấu hỗ
cộng đồng, phá hoại đất nước.
Bằng chứng là trong quá
khứ, bọn khoa bảng này từng cấu kết nhau gian lận thẻ Medical, insurance, dẫn
đến việc chính phủ Mỹ tống giam mấy chục bác sĩ, dược sĩ, luật sư. Bọn khoa
bảng này không hề đóng góp chút gì cho công cuộc đấu tranh chống cộng sản, trái
lại còn tiếp tay cho Việt cộng, bưng bô cho Việt gian. Bọn khoa bảng này chính
là bọn bị Mao Trạch Đông liệt là : “Trí thức không bằng cục phân”.
Hỏi: Anh muốn tâm sự
gì với anh chị em sinh viên và những người trẻ không?
Ngô Kỷ: Tôi xin tâm sự
vài điều:
Thế hệ cha anh chúng ta
đã có hơn mấy mươi năm để đấu tranh, bảo vệ đất nước, và có hơn 14 năm để xây
dựng cộng cộng đồng, giải phóng quê hương. Họ đã thất bại trong quá khứ và cũng
chưa làm được gì khả quan cho hiện tại. Không phải họ hèn kém, cũng không phải
họ tham sanh úy tử, mà trái lại họ đã hy sinh cả một đời để mưu cầu cho sự sống
còn của dân tộc, cho hạnh phúc của toàn dân.
Ngày nay thân thể họ rã
rời, danh dự bị tổn thương, họ phải mang cái mặc cảm “bại trận” trong suốt cuộc
đời còn lại của họ. Thế hệ cha anh của chúng ta đã thất bại trong cuộc đối đầu
với kẻ thù từ bên ngoài và những kẻ phản trắc từ trong lòng dân tộc. Họ đã vì
“Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm” mà chống lại các mưu đồ bán nước, các thế lực
ngoại bang, các thủ đoạn gian manh đê hèn của một thiểu số lãnh đạo bất tài vô
tướng, tham nhũng, thối nát
Họ đã chiến đấu anh
dũng, và định mệnh 1975 đã cuốn họ theo dòng thác để rồi ngày nay họ phải tức
tưởi ngậm ngùi. Hàng triệu chiến sĩ đã chết, hàng vạn người đã tự tử vì không
chịu đựng được cái nhục mất quê hương. Phải chăng vì tương lai, vì sự ấm no
hạnh phúc của chúng ta mà cha anh đã hy sinh một cách lớn lao như vậy?! Là
cháu, là con, là em của những anh hùng liệt nữ, của những bậc tiền nhân, chúng
ta phải khâm phục biết ơn, phải mong ngày đền đáp.
Cha anh chúng ta đã cố
gắng và đã làm không xong những trọng trách mà lịch sử giao phó, thì ngày nay
sự thất bại đó đã thuộc về dĩ vãng, chỉ còn lại bài học lịch sử. Bây giờ không
còn là lúc để chúng ta trách móc mà phải lật qua một trang sử mới, vì thất bại
vẫn là thất bại, lỗi có quy cho ai, nguyên do từ đâu thì hậu quả vẫn là sự thảm
bại của cả một dân tộc trong cuộc đấu tranh dành độc lập và tự chủ thực sự cho
dân tộc trong thời gian qua.
Một triết gia đã nói:
“Chúng ta học nhiều nơi cái ngu hơn là cái khôn của kẻ khác”; bởi vậy những
người trẻ phải cùng nhau đứng lên nhận lãnh trách nhiệm lịch sử, hành trang của
các bạn là những kinh nghiệm thất bại của cha anh và những kiến thức mới mà các
bạn tiếp thu được của thời đại. Ông Bacon đã xác định chỗ đứng của tuổi trẻ:
“Thanh niên thích hợp cho sáng tạo hơn là phán đoán, thực hiện hơn là khuyên
bảo, đưa ra những kế hoạch mới hơn là theo đuổi cố nhân”.
Các bạn phải biết tránh
những vết xe đổ cũ, phải biết đạo đức hơn, khách quan hơn, khoa học hơn trong bước
đường quang phục quê hương. “Trẻ là tự phát, là gần với nguồn sống, là có thể
đứng lên, lật xuống xiềng xích của một nền văn minh hư đốn”, chính Mann đã nói
như vậy.
Với một tấm lòng thiết
tha yêu nước, với một ý chí mãnh liệt vẫn chưa đủ, mà người trẻ Việt Nam phải
biết khôn ngoan, tỉnh táo, phải biết suy nghĩ chín chắn hành động, phải cẩn
trọng trong việc tìm một hướng đi, phải biết đặt khả năng mình vào đúng vị trí mới
ngõ hầu hoàn thành mục tiêu một cách hữu hiệu, bằng không các bạn sẽ trở thành
những tấm thảm lót đường cho bọn mị dân, khoác lác và xôi thịt.
Tuy nhiên, điều tôi
muốn nhắn cùng các bạn là dù những người trẻ có thừa khả năng, kiến thức, nhiệt
tâm để chủ động và lãnh đạo công cuộc đấu tranh, nhưng nếu không được sự cố
vấn, yểm trợ và tiếp tay của các bậc trưởng thượng, quý bậc cha anh “tài đức”,
các bạn sẽ rất khó thành công nếu không muốn nói là thất bại.
Riêng cá nhân tôi, một
người đang bước vào cái tuổi tứ tuần, một cái tuổi lở dở của cuộc đời, tôi
không có được cái kinh nghiệm quý báu của người già, mà cũng không còn được cái
tinh thần hăng say, nhiệt huyết của tuổi trẻ, bởi vậy, tôi kỳ vọng vào các bạn,
những người trẻ mà ít ra tôi còn được cái may mắn sinh cùng một thế hệ. Tôi
thông càm được những nỗi khó khăn và suy tư của các bạn, tôi xót xa được những
niềm đau thương của các bạn, vì tất cả điều đó chính bản thân tôi đã trải qua
trong những năm tháng qua.
Wilde có nói: “Thanh
niên là tài sản duy nhất có giá trị”, bởi vậy dân tộc đang trông mong các bạn.
Nhà chí sĩ cách mạng
Phan Chu Trinh đã nhắn nhủ: “Các anh bước tới một bước thì dân nhà nhờ một
bước, các anh đi lạc một khoảng đường thì nước nhà bị nhận chìm mấy lần địa
ngục”, bởi vậy những người trẻ không có quyền mỏi mệt khi chưa thực sự phấn
đấu, và không có quyền chùng bước khi chưa khởi hành. Tôi cầu chúc các bạn
thành công.
Hỏi: Anh muốn nói gì
nữa không?
Ngô Kỷ: Có thể có người
không đồng ý các câu trả lời của tôi, tuy nhiên trong tinh thần “hòa nhi bất
đồng”, tôi rất mong được đón nhận những sự góp ý xây dựng của quý đồng hương.
Xin cám ơn.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment