ĐINH TỪ THỨC
Nhìn vào sự thật
qua vụ các nhà báo gốc Việt bị giết
Hình minh hoạ bởi Rob Dobi (OC Weekly)
Điều tra phóng sự truyền
hình Terror in Little Saigon đã gây sôi nổi ngay từ trước khi công chiếu
vào ngày 3 tháng 11, 2015. Sau mười ngày, cuộc tranh cãi đã phân định thành
nhiều phe tương đối rõ nét. Nhưng hầu như lập luận của phe nào cũng bị vẩn đục
bởi những định kiến sẵn có, khiến cuộc thảo luận chỉ quanh quẩn, người nọ lập
lại ý kiến của người kia cùng phe, khiến tình trạng ngày càng tù mù thêm. Giống
như một sân quần ngựa, càng nhiều ngựa quần, bụi đất càng mù mịt.
Muốn nhìn rõ vấn đề, trước hết, cần loại
bỏ mọi định kiến, nghi vấn, suy đoán theo tưởng tượng. Cần gạt bỏ mọi tình cảm
thiên lệch sẵn có như bênh ai, chống ai...Hãy bắt đầu từ số không, và chỉ nhìn
vào những sự việc có thật, rồi từ đấy mới có thể có cái nhìn rõ ràng.
Sự thật không thể chối
bỏ
Trước hết, những người
chống lại nhóm làm phim đưa ra lập luận: Nội vụ đã sẩy ra hai ba chục năm rồi,
giới hữu trách đã có gắng nhiều, vẫn không tìm ra thủ phạm, không ai bị truy
tố, tại sao làm sống lại chuyện này? Nhằm mục đích gì? Có âm mưu gì? Ai chi
tiền? Đằng sau có ai? Và đằng sau ai có ai nữa? Tại sao lúc này?... Trong khi
ấy, những người có thành kiến với Mặt Trận [Quốc gia Thống nhất Giải phóng Việt
Nam của Tướng Hoàng Cơ Minh – gọi tắt là Mặt Trận], cũng như với chính đảng kế
tục Mặt Trận là Việt Tân, đều nhấn mạnh về nghi vấn Mặt Trận là thủ phạm. Nội
dung cuốn phim gây tranh cãi cũng thiên về khuynh hướng này, và cũng không nêu
được sự thật mới nào.
Vậy sự thật ở đâu? Bắt
đầu từ chỗ nào?
Dù chưa bắt được thủ phạm, chưa ai bị truy
tố, nhưng có một sự thật không ai chối cãi được, là có những người bị giết. Sự
thật này không ai có thể né tránh, không thể thay đổi, không thể xoá bỏ. Dù
nhắc tới nó hay không, dù can đảm đối diện hay hèn mạt chối bỏ, nó vẫn còn đó.
Chưa có ai bị truy tố, không có nghĩa là không có thủ phạm, không có người
chết. Có nhiều người bị giết mà chưa bắt được thủ phạm, rất nhiều nguy hiểm; vì
thủ phạm vẫn thong dong sống trà trộn với người lương thiện trong xã hội, “đã
quen mất nết đi rồi”, có thể tái phạm tội ác bất cứ lúc nào; là mối đe dọa
thường trực cho mọi người. Hơn nữa, có người chết, thì phải làm cho sáng tỏ.
Không làm được là bất lực, vô trách nhiệm, vô cảm.
Theo những tài liệu rõ
ràng, không ai chối cãi được, là trong mười năm, từ 1981 đến 1990 thế kỷ trước,
có nhiều vụ khủng bố mà nạn nhân thuộc thành phần người Việt tại Mỹ. Kẻ bị đe
doạ, bị hành hung, người bị đốt nhà, nhiều người bị bắn chết, có người chỉ bị
thương, thoát chết. Nội dung cuốn phim gây tranh cãi chỉ nói tới năm người bị
giết, nên ở đây, cũng chỉ đề cập tới những người này.
Năm người bị giết không
phải chỉ là những con số đơn độc vô tri vô giác. Mỗi người không phải chỉ là
một phân số 1/5 của một tổng số. Họ là những con người bằng xương bằng thịt, có
tên tuổi, diện mạo, có sở thích, chí hướng, có gia đình, bạn hữu và nguồn gốc.
Đó là sự thật.
Sự thật khác là cả năm
người khi bị giết đều cùng đang sống trên lãnh thổ Hoa Kỳ, là cường quốc dân
chủ số một trên thế giới, là “thành phố ánh sáng trên đồi cao” cho cả thế giới
noi theo về tinh thần trọng luật, và tôn trọng nhân quyền. Sự thật kế tiếp là
những người này đã bị giết hai ba chục năm, mà chính quyền Hoa Kỳ vẫn chưa tìm
ra thủ phạm để đem ra trước công lý. Nếu đây là một vết nhơ, một điều đáng xấu
hổ, đáng nhục thì, ai xấu hổ, ai nhục? Có người nói: khơi lại nội vụ là làm
nhục cộng đồng người Việt. Sự thật, có phải vậy không?
Một sự thật khác liên hệ
tới nhà báo bị giết không thể bỏ qua: Ngày 7 tháng 1 năm 2015, hai sát thủ xông
vào tuần báo châm biếm Charlie Hebdo ở Paris, bắn chết 12 người. Cả thế giới
phẫn nộ. Tổng Thống Pháp từng bị tờ báo này mạ lỵ thậm tệ nhiều lần, ra lệnh
treo cờ rủ, cả nước Pháp để tang, hàng triệu người xuống đường đeo huy hiệu, tự
nhận “Tôi là Charlie” (Je suis Charlie). Tổng Thống Mỹ Obama lên án vụ tấn công
là “horrific shooting” (vụ bắn khủng khiếp), hứa giúp đỡ mọi sự cần thiết để
đưa bọn khủng bố ra trước công lý. Tổng Thư Ký LHQ Ban Ki-moon tuyên bố: “Đó là
một tội phạm máu lạnh, kinh hoàng không thể biện minh được. Nó cũng là cuộc tấn
công thẳng vào nền tảng của dân chủ, vào truyền thông và vào tự do phát biểu”.
Thủ Tướng Anh Cameron bầy tỏ trên twitter: “Những vụ giết người tại Paris là
bệnh hoạn. Chúng tôi sát cánh với dân tộc Pháp trong trận đánh chống lại kinh
hãi và bảo vệ tự do báo chí”.
Khác nhau giữa các nhà
báo Pháp bị giết ở Paris, và nhà báo gốc Việt bị giết ở Mỹ là ở chỗ, một đằng bị
giết cùng một nơi, cùng lúc, một đằng bị giết lẻ tẻ, rải rác nhiều nơi, trong
nhiều năm. Thủ phạm giết nhiều người một lúc, là phạm pháp một lần. Thủ phạm
giết người nhiều lần, mỗi lần một vài người, dù tổng số người bị giết ít hơn,
nhưng là phạm pháp nhiều lần, có yếu tố tái phạm. Một yếu tố khiến tội phạm
nặng thêm.
Vậy, vụ các nhà báo gốc
Việt bị giết ở Mỹ phải được coi là nghiêm trọng hơn vụ Charlie Hebdo. Tuần báo
Charlie Hebdo là một cá thể trong cộng đồng dân Pháp, dù nhiều người không ưa
cá thể này, nhưng từ tổng thống trở xuống, cả dân Pháp đã đau buồn, cùng nhau
chịu tang, thế giới chia buồn.
Các nhà báo Việt bị sát
hại tại Mỹ, dù có người không ưa họ – chẳng ai được mọi người cùng ưa – trước
hết, họ là những cá thể trong cộng đồng người Việt, cùng lúc, họ cũng thuộc về
cộng đồng tất cả mọi người sống trên đất Mỹ. Trước hết, cái chết của họ là nỗi
đau chung, là tang chung cho cả cộng đồng người Việt. Và theo cách đối xử của
dân Pháp trước vụ Charlie Hebdo, họ cũng đáng được dân Mỹ chia sẻ niềm đau,
chính quyền Hoa Kỳ giúp đỡ, và thế giới quan tâm.
Bây giờ, xin nhìn thẳng
vào sự thật, trước những cái chết của họ, cộng đồng người Việt đã làm gì? Chính
quyền Hoa Kỳ đã làm gì? Thế giới đã làm gì?
Nói theo Nguyễn Ngọc
Lan, trước tội ác sẩy ra cho thành viên của mình, Cộng đồng người Việt đã “làm
thinh”! Nói “làm thinh” là đã nhẹ bớt quá nhiều. Sự thật còn tệ hơn nữa. Trả
lời nhóm làm phim ProPublica, người đã bắn Trần Khánh Vân, chỉ vì ông này chủ
trương đối thoại và giao thương với Việt Cộng, Trần Văn Bé Tư, sau bảy năm ngồi
tù, vẫn còn hãnh diện: “Tôi bắn, hắn đổ xuống như một cái cây”. Và cho biết
thêm: “Dân chúng ở Orange County coi những ngừơi giết những kẻ bị coi là Cộng
Sản như anh hùng”. Ông còn nói đã được tuyển mộ gia nhập K-9 nhưng từ chối, tuy
vậy, ông thán phục việc làm của họ.
Còn chính phủ Hoa Kỳ,
Tổng Thống Obama hứa giúp nước Pháp “đưa bọn khủng bố ra trước công lý”, nhưng
đối với bọn khủng bố giết người trên nước ông, ông cũng làm thinh luôn. Còn thế
giới? Cộng đồng Việt như vậy, chính quyền Mỹ như vậy, hà tất thế giới phải quan
tâm.
Sự thật đáng buồn
Một sự thật đáng buồn
hơn cả thái độ làm thinh: Sau khi điều tra phóng sự Kinh hoàng tại Little
Saigon công chiếu, đã có cuộc vận động trong cộng đồng chống lại nỗ lực của
nhóm người làm sống lại vụ án này, với lý do âm mưu làm xấu hình ảnh cộng đồng.
Như đã trình bầy, những người bị giết là nạn nhân, cộng đồng người Việt là tang
gia. Ở đâu có chuyện lạ đời, nhiều thành viên trong gia đình bị giết mà tang
gia bị nhục? Cộng đồng không bao bọc thành viên của mình, và làm thinh, hay còn
vui mừng trước hoạn nạn của thành viên, cái đó mới đáng nhục. Và nhục nhã
nhất ở đời là không biết nhục.
Phía chống đối
ProPublica còn nêu nghi vấn: Có thể những nhà báo bị giết là do bàn tay Việt Cộng,
để tạo nghi ngờ và chia rẽ trong cộng đồng Việt tị nạn. Nếu vậy, nội vụ càng
cần làm sáng tỏ, thay vì bỏ qua. Bởi vì, cái nước Mỹ số một thế giới, cùng với
cộng đồng Việt chống cộng nổi tiếng hoàn cầu, mà để Việt Cộng gửi sát thủ sang
đây hoành hành như chỗ không người, thỉnh thoảng giết một nhà báo để bịt miệng,
kéo dài cả chục năm, vẫn không bắt được thủ phạm. Nhục nào bằng?
Chính quyền Mỹ có trách
nhiệm bảo vệ an ninh cho mọi cư dân. Để cho người dưới trách nhiệm bảo vệ của
mình bị giết là một cái nhục. Nhục kế tiếp là bó tay, không tìm ra thủ phạm.
Nhóm làm phim đánh động dư luận, làm sống lại nội vụ, trước hết là góp phần tìm
ra thủ phạm để bộ mặt Hoa Kỳ không bị nhem nhuốc, sau là đem lại một kết thúc
bình an cho gia đình các nạn nhân. Thế mà, điều đáng ngạc nhiên, một nghị sĩ
gốc Việt tại Viện Lập Pháp Tiểu Bang California đã vội vàng lên tiếng phản đối.
Nghị sĩ Janet Nguyễn có một vai trò kép, vừa là đại diện dân Mỹ, vừa là một
thành viên cộng đồng Việt. Đáng lẽ bà phải vui mừng gấp đôi trước việc làm của
ProPublica, vì cố gắng của họ vừa làm đẹp cho nước Mỹ, vừa đem lại lợi ích cho
cộng đồng Việt. Một tuần sau ngày công chiếu phóng sự điều tra, trong lá thư
ngày 10 tháng 11 gửi ProPublica, bà tỏ vẻ bất bình và yêu cầu tổ chức này phải
xin lỗi cộng đồng Việt. Lý do bất bình, bà viết: “Trái với những gì được trình
bầy xuyên tạc trong phóng sự của ông, trên 1.7 triệu người Mỹ gốc Việt là những
công dân tôn trọng pháp luật đã cống hiến cho sự thịnh vượng của xã hội Hoa
Ky”. (Contrary to what was portrayed in your slanted reporting, the more
than 1.7 million Vietnamese Americans are law abiding citizens that contribute
to the rich tapestry of America’s society).
Nghị sĩ Nguyễn nói mà
không cần để ý tới thực tế. Sự thật là sắc dân nào, cộng đồng nào cũng vậy, đều
có một số do thiếu hiểu biết, hay cố tình vi phạm pháp luật. Vì thế mới cần có
hệ thống tư pháp. Trên nước Mỹ, năm nào cũng có những người Việt phạm pháp, bị
truy tố ra toà. Đó là chuyện bình thường. Nếu tất cả trên một triệu bảy trăm
ngàn người gốc Việt đều là những công dân tôn trọng pháp luật, vậy những người
bị truy tố hay đang thi hành án trong tù, họ ở đâu ra? Nghị sĩ Nguyễn còn trẻ,
tương lai con nhiều hứa hẹn, không nên phát biểu giống như những người phát
ngôn từ Bắc Kinh hay Hà Nội, lúc nào cũng gân cổ tuyên bố “chúng tôi không có
tù chính trị”, nhưng trong “kho dự trữ” luôn đầy ắp, sẵn sàng đem ra làm quà mở
đường cho một chuyến công du, hay đổi lấy chữ ký cho một thoả hiệp béo bở.
“Bản án tử hình” dành cho Dương Trọng Lâm (tài liệu trên
ProPublica)
Ngoài ra, khi có những
người, hay nhóm người gốc Việt phạm pháp, đó là chuyện cá nhân hay băng đảng
riêng, họ làm họ chịu. Một người hay một nhóm phạm pháp không phải cả cộng đồng
phạm pháp. Uy tín cộng đồng không bị suy giảm khi có một cá nhân, hay một nhóm
trong cộng đồng phạm pháp. Chỉ khi nào cộng đồng cố tình bao che cho một cá
nhân hay một nhóm trong tập thể của mình, lúc ấy, uy tín cộng đồng bị thương
tổn. Ngược lại, khi cộng đồng tham gia việc tìm ra kẻ phạm pháp trong tập thể
của mình, là góp phần rửa sạch bộ mặt mình, càng làm cho uy tín của cộng đồng
lên cao.
Để Nghị Sĩ Nguyễn dễ
phân biệt giữa vinh với nhục, và giữa cá thể với cộng đồng, chẳng cần tìm đâu
xa, có thể nhìn ngay vào lịch sử hiện đại của Hoa Kỳ. Năm 1972, Tổng Thống
Nixon bao che cho một nhóm tay chân bộ hạ ở Bạch Ốc đột nhập trụ sở Đảng
Dân Chủ ở chung cư Watergate. Hai nhà báo trẻ của The Washington Post, được sự
đồng ý của chủ bút, cố truy tìm nguồn gốc của việc làm phạm pháp này. Lúc đầu.
vì chưa đủ bằng chứng, nhà báo gặp rất nhiều khó khăn. Họ cũng bị đe doạ, nhưng
nhà báo đã cố làm việc vì công tâm, để bảo vệ những giá trị cao đẹp của Mỹ,
không phải để bôi nhọ nước Mỹ. Trong trường hợp này, truy nguyên để chứng minh
ông tổng thống phạm pháp, là cố gắng can đảm, đáng trân trọng, không phải là
việc làm cần ngăn chặn.
Khi ông Nixon hết đường
nói quanh, phải từ chức, tuy ông là đương kim tổng thống, đại diện cho cả nước
Mỹ, nhưng hành vi sai trái của ông chỉ riêng ông phải chịu. Mình ông xấu mặt.
Nước Mỹ chẳng những không xấu, còn được cả thế giới kính phục. Lần đầu tiên
trong lịch sử, nhà báo chỉ với cây bút trong tay, làm cho một ông tổng thống
quyền lực hàng đầu thế giới, nắm chìa khoá nguyên tử trong tay, phải từ chức.
Một trùng hợp khá hy
hữu, trong cùng ngày Nghị sĩ Nguyễn viết thư cho ProPublica, nói tất cả người
Việt ở Mỹ đều là những công dân tôn trọng pháp luật, ông Nguyễn Xuân Nghĩa, một
cựu lãnh đạo cao cấp của Mặt Trận cho biết: K-9 có thật, do ông Phạm Văn Liễu
điều động, mục tiêu ám sát đầu tiên là chính ông (Nguyễn Xuân Nghĩa), mục tiêu
thứ nhì là chủ báo Người Việt Đỗ Ngọc Yến, nhưng cuối cùng, ông Trần Khánh Vân
lãnh đạn! Kẻ bắn ông Vân vẫn còn đó, sau khi mãn án tù vẫn hãnh diện về hành vi
bắn người của mình. Nếu cho đây là niềm hãnh diện chung của cộng dồng, terror
chính là đấy, phải tìm đâu xa?
Ngoài ngạc nhiên về nội
dung thư phản đối của Nghị sĩ Janet Nguyễn, là ngạc nhiên về câu nói của một
nhà lãnh đạo Mặt Trận vốn nổi tiếng khôn ngoan, ông Hoàng Cơ Định. Trong cuộc
phỏng vấn do Hà Giang báo Người Việt thực hiện ngày 6 tháng 11, ông Định tuyên
bố: “Nhưng nếu trong một cộng đồng, cứ một người cầm bút tử nạn là lập tức cho
là họ bị đàn áp vì sự nghiệp viết lách thì cộng đồng đó có đáng cho là đã
trưởng thành hay chăng.” Nếu chỉ là câu nói vô tình, đó là sự đáng tiếc. Nếu cố
ý, đó là câu nói nhằm mục đích đánh lạc hướng dư luận. Nói chung, ông nêu một
nhận định đúng. Nhưng nó không đúng với trường hợp các nhà báo bị giết. Từ
trước tới nay, có nhà báo từ trần do nguyên nhân không bình thường, nhưng tên
tuổi không nằm trong danh sách những người bị đàn áp vì sự nghiệp viết lách.
Trong khi ấy, qua bằng chứng còn lại, tất cả những người bị giết, trừ một người
là chuyên viên kỹ thuật, đều là những nhà báo cương quyết bầy tỏ lập trường của
họ, bất chấp áp lực. Họ đích thực là nạn nhân của những vụ giết người để bịt
miệng. Trong số này không có ai là nhà báo ra đường bị xe cán, rồi cộng đồng hô
hoán lên là họ chết vì sự nghiệp viết lách.
Diện mạo các nạn nhân
Theo thứ tự thời gian,
nạn nhân đầu tiên là Dương Trọng Lâm, 27 tuổi, chủ bút báo Cái Đình Làng, bị
giết 1981, tại San Francisco, CA. Theo “bản án tử hình” bằng tiếng Anh đề ngày
7 August 1981, được thi hành bởi “Tổ Chức Người Việt Diệt Cộng Phục Quốc”
(VOECRN). Tóm tắt tội trạng liệt kê: Lâm được VNCH cho đi du học năm 1971, thay
vì phục vụ Quốc Gia lại theo Cộng Sản, làm báo Cái Đình Làng để tuyên truyền
cho cộng sản. Sau khi Terror in Little Saigon công chiếu, một nhân vật
uy tín trong cộng đồng Bắc Cali là cựu Đại Tá Vũ Văn Lộc cho biết thêm, cha Lâm
là Trung Tá VNCH Dương Văn Lạng, nay cũng đã qua đời. Vẫn theo ông Lộc, xác Lâm
lúc đầu đã được chôn trong nghĩa trang cộng đồng, nhưng có một số quý vị phản
đối. Tuy không ép buộc, gia đình tự ý mang Lâm đi chôn nơi khác, để tránh bị
phá hoại.
Chỉ cần riêng sự thật
trên đây, một sự thật không ai chối cãi được, và chỉ cần một vụ này thôi, có
cần thế lực nào, có cần âm mưu nào, có cần ai làm thêm gì nữa để bôi xấu cộng
đồng Việt?
Dương
Trọng Lâm khi là sinh viên trường Oberlin.
(Courtesy of Oberlin College Archives)-
(Ảnh lấy từ ProPublica)
Hỏi lý do tại sao bỏ
nước chạy sang Mỹ, có lẽ bất cứ ai trong cộng đồng Việt tị nạn, dù đang ngủ mơ,
cũng có thể trả lời trôi chảy: “sang đây để có tự do dân chủ”. Tự do có phải
muốn lên án tử ai cũng được, dân chủ có phải người dân nào cũng có thể tự mình
làm quan toà, kiêm đao phủ? Và giết người rồi, còn không muốn cho chôn! Lời
tuyên bố của Tổng Thư Ký LHQ Ban Ki-moon sau vụ Charlie Hebdo rất phù hợp cho ở
đây: “Đó là một tội phạm máu lạnh, kinh hoàng không thể biện minh được. Nó
cũng là cuộc tấn công thẳng vào nền tảng của dân chủ, vào truyền thông và vào
tự do phát biểu” (It was horrendous, unjustifiable and cold-blooded crime. It
was also a direct assault on a cornerstone of democracy, on the media and on
freedom of expression).
Người thứ nhì là Nguyễn
Ðạm Phong, 45 tuổi, bị ám sát Tháng Tám, 1982, tại nhà ở Houston, Texas. Đạm
Phong làm báo từ thời ở Sài Gòn, sang Mỹ, làm chủ nhiệm tờ Tự Do ở Houston.
Những bài báo còn lại cho thấy Đạm Phong công kích Mặt Trận khá nặng nề, qua
những bài báo chiếm đầy trang nhất. Theo thân nhân công khai kể lại, Đạm Phong
đã sang tận Thái Lan tìm hiểu về “chiến khu” của Mặt Trận, từng bị Mặt Trận mua
chuộc, áp lực và liên tục đe doạ.
Qua vụ chiếu phim Terror
in Little Saigon, và những lên tiếng tiếp theo của con trai, dư luận được
biết khi bị ám sát, Đạm Phong có tới 10 con. Số con mồ côi đông đảo này của Đạm
Phong, dù khi bố chết hãy còn bé, đến nay chắc đã biết rõ bố chết như thế nào,
và tại sao. Nhưng mấy chục đứa con của các con Đạm Phong, những đứa trẻ không
có ông như các bạn cùng trang lứa, những đúa trẻ không bao giờ được ông đưa đón
ở cửa trường hay dắt ra công viên, những đứa cháu không bao giờ được gặp ông.
Bố mẹ các cháu sẽ giải thích như thế nào, để các cháu hiểu được: Tại sao ông
đưa cả nhà sang Mỹ để có tự do, rồi lại chết vì làm báo Tự Do?
Đạm Phong (dứơi cùng bên phải) với vợ và 8 trong số 10 con (Hình
ProPublica)
Nạn nhân thứ ba là Phạm
Văn Tập (tức Hoài Ðiệp Tử), 45 tuổi, chủ nhiệm tạp chí Mai, chết ngộp khi văn
phòng của ông bị đốt Tháng Tám, 1987, tại Garden Grove, California. Người viết
không biết nhiều về nhà báo này. Chỉ được biết, trước khi chết, ông đã từng bị
cảnh cáo, vì báo Mai đăng quảng cáo cho những dịch vụ làm ăn với Việt Cộng. Nếu
còn sống, bây giờ, chẳng những đăng quảng cáo, ông còn có thể mang tiền về Việt
Nam làm ăn, du lịch và du hí, cùng với hàng trăm ngàn khúc ruột ngàn dặm mỗi
năm. Làm báo đi trước thời cuộc, thường là ưu điểm, nhưng sống giữa cộng đồng
Việt mà đi trước thời cuộc, mất mạng như chơi!
Người thứ tư bị giết là
ông Ðỗ Trọng Nhân, 56 tuổi, chuyên viên kỹ thuật cho tạp chí Văn Nghệ Tiền
Phong, bị bắn chết trong xe, tại Fairfax, Virginia, Tháng Mười Một, 1989. Ông
Nhân là cựu sĩ quan cấp Tá, quân lực VNCH. Không phải là nhân viên toà soạn,
không viết bài, nên ông không bị đe doạ, hay gây tranh cãi gì liên hệ tới bài
vở của tạp chí. Ông sống một mình nên chẳng có ai thắc mắc khi không thấy ông
trở về vào cuối ngày làm việc. Ông rời sở làm chiều Thứ Hai, phu đổ rác phát
giác ông chết ngồi trước tay lái trong xe sáng Thứ Tư. Không biết ông bị bắn
bao giờ. Báo VNTP chỉ loan một tin nhỏ, chẳng mấy ai chú ý, nói ông bị
giết vì chuyện riêng. Nội vụ rơi vào lãng quên. Không hiểu nhà báo căn cứ vào
đâu để loan tin như vậy? Không bắt được thủ phạm, sao biết được chết vì lý do
riêng tư.
Ít lâu trước khi bị
giết, ông Lê Triết, một cây viết quan trọng của VNTP, và cũng là tham vấn cho
Chủ Nhiệm Nguyễn Thanh Hoàng, nói với người thân rằng: “Anh Nhân đã chết thay
tôi. Người ta đã giết anh ấy, vì tưởng lầm là tôi”. Lê Triết giải thích thêm:
Anh ấy không viết bài, chẳng thù oán với ai, đi làm rất chăm chỉ. Vẫn theo Lê
Triết, anh và anh Nhân xấp xỉ tuổi nhau, cả hai cùng tầm vóc, hơi gầy, cùng đeo
kính và cùng đi xe mầu xanh. Chỉ có một khác biệt: Lê Triết tới toà soạn bất
thường, phần vì có thể viết bài ở nhà, phần vì lý do an ninh, để tránh bị theo
dõi. Anh Nhân đi làm theo giờ nhất định, dễ bị theo dõi, bị nhận lầm là Lê
Triết, và bị bắn khi ra về. Sau này, người nghe truyện cảm thấy hối hận, vì chỉ
“nghe rồi bỏ”; tưởng Lê Triết muốn “quan trọng hoá” cá nhân mình. Bỏ qua vì
nghĩ rằng, cùng người Việt chống cộng với nhau, ai nỡ dã man thế.
Nạn nhân cuối cùng là Lê
Triết, 61 tuổi, và vợ là Đặng Trần Thị Tuyết, 52 tuổi. Cả hai cùng bị hạ sát
tại chỗ đậu xe ở đầu nhà, khoảng gần nửa đêm 21 rạng 22 tháng 9, 1990. Qua bút
hiệu Tú Rua trên mục “Ngày Lại Ngày” của VNTP, Lê Triết gây sóng gió trên tờ
báo này trong một thập niên, danh vang khắp nơi, oán thù cũng lắm. Đe doạ cũng
nhiều.
Khi Mặt Trận ra đời, Lê
Triết và VNTP nói chung rất phấn khởi, và tích cực ủng hộ. Toà báo đã cử ký giả
Hoàng Xuyên đi “chiến khu” của Mặt Trận để làm phóng sự. Nhưng từ khi những
thầm kín nội bộ của Mặt Trân dần dần lộ diện, nhà báo thành kẻ thù, bị đe doạ,
qua thư cũng như điện thoại. Lê Triết không phải là người dễ chịu áp lực. Càng
bị đe doạ, anh càng cương quyết, càng chứng tỏ con đường anh theo đuổi là đúng.
Thay vì khuất phục, anh đề phòng, mua súng tự vệ, lắp camera bốn góc nhà, cộng
với con chó Bobby do Nguyễn Thanh Hoàng mua cho.
Tại party của gia đình
một người bạn, mừng con trai hoàn tất chương trình y khoa bác sĩ, vào tối Thứ
Bảy 21 tháng 9, Lê Triết tâm sự với bạn hữu: Qua Mỹ từ 1975, anh không muốn vào
quốc tịch, vì còn mẹ già ở quê cũ, không muốn cắt đứt chút liên hệ pháp lý còn
lại. Chẳng lẽ mẹ người Việt, con công dân Mỹ, như người ngoại quốc. Mãi đến
cuối thập niên 80, trước tình hình khối cộng sản Liên Xô sụp đổ, anh xin về hưu
sớm, và xin nhập quốc tịch Mỹ, để dễ dàng xin thông hành đi Nga. Cả gia đình là
nạn nhân cộng sản, rất phấn khởi trước tình hình mới, anh khoe: “Tôi làm xong
mọi thủ tục đi Mạc Tư Khoa rồi. Chỉ mấy tuần nữa, tôi sẽ chụp một tấm hình đứng
giữa Công Trường Đỏ, gửi về cho mẹ tôi, không cần nói gì cả, Cụ sẽ mừng và hiểu
là tôi đã thoả chí bình sinh”.
Rời party khoảng 11 giờ
đêm, anh chị về đến nhà quãng 11:30, lái xe vào chỗ đậu thường lệ ở đầu nhà.
Cũng là nơi sát thủ chờ sẵn, ra tay ngay, gọn lẹ và chuyên nghiệp. Lê Trết chưa
kịp mở cửa xe, chết gục trước tay lái. Chị Triết đã mở được cửa xe, người nửa
trong nửa ngoài, chân co chân duỗi, chết nằm trên sàn xi măng carport.
(Hình lấy từ Terror in Little Saigon – ProPublica)
Trong vòng vài ngày sau,
nhà người thân Lê Triết, điện thoại reo liên hồi.Khi nhấc lên, thay vì tiếng
nói, chỉ là những tràng cười, như thích thú, như chế diễu, như đe dọa, lạnh
lùng, ghê rợn!
Gia đình Lê Triết ở Việt
Nam giữ kín, không dám cho thân mẫu anh biết tin dữ, vì không biết cách giải
thích thế nào cho cụ bà 90 tuổi hiểu được, tại sao con mình bỏ mẹ chạy lấy
người, để khỏi bị chết vì tay Cộng Sản, bây giờ lại chết giữa tập thể đồng
hương chống cộng, ở Mỹ!
Ngày giỗ đầu, các con
đem phim cũ ra chiếu. Khi hình ảnh ông bà Lê Triết xuất hiện, con Bobby đang
ngồi ở góc nhà, vừa vẫy đuôi, vừa sủa, chạy tới hít hít vào màn hình, như mừng
chủ đi xa về. Mừng cho nó, có vẻ an phận, nhờ không ý thức được thế nào là
terror. Nhưng người có mặt đã không cầm được nước mắt. Nó cũng đã đi theo chủ,
lâu rồi.
Kinh hãi trái khoáy
Cuốn phim Terror in
Little Saigon (Kinh hãi tại Little Saigon), như mọi người đã biết, có nội
dung nói về cái chết của những nhà báo gốc Việt bị giết tại Mỹ từ 1981 đến
1990. Nhưng thực tế, nó đã tạo một hiệu ứng trái ngược trong cộng đồng Việt:
Hầu như chẳng ai cảm thấy “kinh hãi” khi các nhà báo bị giết. Như đã trình bầy,
cả cộng đồng và làng báo Việt hồi đó đều “làm thinh”. Trái lại, đã có một không
khí “kinh hãi” trong cộng đồng, trước và sau hôm công chiếu ngày 3 tháng 11.
Nhiều cá nhân và đoàn thể trong cộng đồng khắp nơi trên đất Mỹ nhảy dựng, thảo
luận, kết án, chống đối, hội họp, tìm cách đối phó... ngay từ trước khi xem
phim. Và sau khi xem phim, mức độ kinh hãi càng tăng. Hoạt động đối phó cũng
tăng: mời họp, thông cáo, kiến nghị, thư phản đối, họp báo, cả kế hoạch biểu
tình trước PBS.
Trong khi cộng đồng sôi
nổi như vậy, lại bị các nhân vật rất gần gũi với cộng đồng chê bai. Ông Hoàng
Cơ Định nghi ngờ về trình độ trưởng thành của cộng đồng, trong khi ông Nguyễn
Xuân Nghĩa viết: “chỉ mong rằng cộng đồng chúng ta không mắc bệnh câm, điếc hay
mù!” Người viết không tin quý vị trong cộng đồng thiếu trình độ. Cũng không tin
quý vị mắc bệnh câm, điếc, hay mù. Thật ra, quý vị là những người rất năng động
và nhậy cảm, nhưng không đúng lúc, thành ra đôi khi lẫn cẫn. Lúc đáng lẽ cảm
thấy kinh hãi, như khi có người bị giết vì bất đồng chính kiến, hay để bịt
miệng, thì quý vị im lặng. Khi đáng phấn khởi hay vui mừng, như khi nhà báo tìm
hiểu quá khứ, đánh động lương tâm để giúp tìm ra thủ phạm, thì lạI cảm
thấy hãi hùng, lo sợ. Tình trạng này, có thể tạm gọi là bệnh “kinh hãi trái
khoáy” (improper terror).
Ngoài kinh hãi vì những
vụ giết người, có thế nói, qua cuốn phim “terror”, còn có thể thấy cả kinh hãi
ngay trong đời sống cộng đồng:
Tại Cali, hàng năm cộng
đồng Việt đều có tổ chức lễ giỗ và tưởng niệm Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Một
trong những đức tính hàng đầu của Tổng Thống Diệm được nêu ra hàng năm, là sự
quý trọng mạng sống con người. Bằng chứng: Hà Minh Trí, sát thủ Việt Cộng toan
ám sát Tổng Thống tại Ban Mê Thuật ngày 22 tháng 2 năm 1957, và phi công Phạm
Phú Quốc, bỏ bom Dinh Độc Lập sáng 27 tháng 2 năm 1962. Cả hai người này, một
là Việt Cộng, một là sĩ quan phản loạn, xử đúng luật, đều đáng án tử hình.
Nhưng ông Diệm đã không giết họ. Dù yêu hay ghét ông, đó là sự thật, không thể
chối cãi. Trường hợp này, ông Diệm còn nhân từ, rộng lượng hơn Charles de
Gaulle. Ngày 22 tháng 8, 1962, có cuộc ám sát hụt Tổng Thống Pháp de Gaulle ở
Paris, do Trung Tá Không Quân Pháp Jean Bastien Thiry chủ mưu. Ông này bị toà
án Paris kết án tử hình ngày 4 tháng 3, 1963, không được de Gaulle ân xá, và bị
xử bắn chỉ một tuần sau đó, ngày 11 tháng 3, 1963. Một tên Việt Cộng, một sỹ
quan phản loạn, chủ tâm giết, đã ra tay và giết hụt Tổng Thống. Mặc dầu có đầy
đủ quyền hành hợp pháp để xử tử họ, nhưng ông không làm. Ông trọng mạng sống
của họ, dù họ đã cố tình giết ông. Cứ giả tỉ Dương Trọng Lâm là Cộng Sản, anh
ta chưa hề giết ai, không có âm mưu giết ai. Vậy mà có người tự tiện giết anh
ta, còn nhân danh cái này cái nọ, và công bố “bản án”. Trước sự việc khủng
khiếp như vậy, có đáng gọi là “kinh hãi”, terror? Lúc sẩy ra chuyện thực sự
kinh hãi, quý vị không làm gì. Chẳng những thế, giết người vô cớ còn không muốn
cho chôn! Đáng kinh hãi hơn nũa! Trong khi đề cao Cụ Diệm, vẫn thản nhiên làm
ngược lại những đức tính tốt của cụ, có phải là tình trạng đáng kinh hãi không?
Ai chưa cảm thấy kinh
hãi đủ, người viết xin trình bầy tiếp: Trở lại vụ ông de Gaulle không ân xá cho
tử tội Thiry. Thật ra, lúc đầu ông đã định ân xá, nhưng sau khi suy nghĩ, ông
đã đưa ra 5 lý do để bác. Trong số này, hai lý do đầu và cuối rất đáng lưu ý:
- Lý do đầu, hung thủ đã
xả súng vào xe trong đó có chở một người đàn bà vô tội; đó là Bà Yvonne de
Gaulle, vợ ông, ngồi chung xe với ông.
- Lý do cuối, các hung
thủ xử dựng võ khí tấn công, chính họ đối diện với hiểm nguy khi hành động, họ
được giảm án. Nhưng người chủ mưu Thiry, không trực tiếp hành sự, mà ngồi chỉ
huy ở một nơi an toàn, không đáng được ân xá.
Cả hai lý do trên, đều
có thể áp dụng cho vụ ám sát ông bà Lê Triết, với mức độ trầm trọng hơn; vì ông
de Gaulle và người đàn bà vô tội vợ ông đều thoát chết, trong khi ông Triết và
người đàn bà vô tội của ông không may mán như vậy. Đồng thời, theo hồ sơ cảnh
sát, hung thủ là kẻ giết người chuyên nghiệp; nghĩa là kẻ chủ mưu cũng chỉ huy
từ một nơi an toàn, như Thiry.
Người vô tội bị giết, kẻ
đáng tử hình vẫn ngoài vòng pháp luật, trong một phần tư thế kỷ. Đủ kinh hãi
chưa?
Còn nữa: Sau khi chống
đối A.C. Thompson, một phần sinh hoạt nhộn nhịp trong cộng đồng rọi đèn chiếu
vào Tony Nguyễn: Eureka! Nó đây rồi! Lại một thằng cộng sản nữa! Nó là bạn của
Dương Trọng Lâm, lấy tiền của cộng sản để bôi nhọ cộng đồng! Nếu quả thật Tony
Nguyễn là cộng sản, hay thân cộng, thì thật đáng kinh hãi. Không phải kinh hãi
vì anh ta là cộng sản, mà kinh hãi cho cộng đồng. Tất cả mọi người trong cộng
đồng Việt tị nạn, kể cả người viết bài này, xưa nay chống cộng, vì tin rằng tất
cả những gì liên hệ tới cộng sản đều xấu. Nếu Tony Nguyễn là cộng sản, và ngày
nay anh ta xả thân cố làm sáng tỏ cái chết của người bạn tên Lâm sẩy ra từ 34
năm trước, như vậy là tình bạn của những người cộng sản hay thân cộng đối với
nhau rất sâu đậm. Trong khi ấy, những người quốc gia có chính nghĩa sáng ngời,
không lo làm sáng tỏ cái chết của những thành viên chống cộng như Đạm Phong, Lê
Triết, mà trước nỗ lực truy tầm thủ phạm của nhà báo, lại cảm thấy “terror”,
như chính mình là thủ phạm sắp bị hành quyết. Còn kinh hãi nào hơn?
Vẫn chưa hết: Trong khi
trả lời phỏng vấn trên đài Cali Today ngày 6 tháng 11, một nhân vật uy tín
trong cộng đồng Bắc Cali đã phát biểu ý kiến, giống như một số người khác, về
cuốn phim Terror in Little Saigon, rằng đây là chuyện cũ, sẩy ra trong
lúc lòng người còn giao động, không nên nói tới nữa. Trong khi ấy, từ trước tới
nay, cộng đồng chống cộng vẫn nhắc tới, vẫn đòi cộng sản phải làm sáng tỏ những
vụ giết người từ thời Cải Cách Ruộng Đất, thời Mậu Thân, thời Tù Cải Tạo, và
những vụ bịt miệng thời Nhân Văn, Giai Phẩm, vụ Xét Lại... Tất cả terror này
đều cũ hơn những terror trên đất Mỹ. Chỉ nhìn thấy lỗi ở người mà không nhìn
thấy lỗi ở mình, căn bệnh này có đáng kinh hãi không?
Lại nữa, Đại Tá Lộc chê
cuốn phim “đầu voi đuôi chuột”, chưa đưa ra được những bằng chứng thuyết phục.
Ký giả và cơ sở truyền thông tư nhân không phải là cảnh sát hay FBI. Họ đã cố
gắng, và họ mới làm được đến thế thôi. Cộng đồng gốc Việt là tập thể có liên
hệ, nêu thấy còn thiếu sót, nên tiếp tay họ để làm tốt hơn, thay vì coi họ như
kẻ thù. Họ mới đem lại được cái “đuôi chuột”, cộng đồng đã hoảng loạn lên. Nếu
họ đem lại cái đuôi voi? Terror!
Ngoài chuyện terror, nhóm làm phim còn bị công kích về việc dùng
chữ “Little Saigon”, nói rằng địa danh xuất hiện sau các vụ giết người, và có
những vụ ám sát sẩy ra ngoài Cali, như ờ Virginia, hay Texas. Little Saigon đã
trở thành tượng trưng cho tập thể người Việt tị nạn tại Mỹ. Nếu bảo tên này chỉ
dành riêng cho một nơi nhất định nào, tại sao đã có Little Saigon ở Nam Cali,
Bắc Cali cũng đòi y hệt cho San Jose? Sau vụ khủng bố tại Paris hôm Thứ Sáu 13
tháng 11, nhiều người nước khác đã đeo biểu hiệu “Je suis Paris”. Sao không ai
nói với những người này là khủng bố tận bên Pháp, anh đang ở Mỹ, anh là (cái
chó) gì mà tự xưng Je suis Paris?
*
* *
Từ đầu bài, người viết
chỉ nhìn vào những gì dựa trên sự thật. Để đổi khẩu vị, xin thay lời kết bằng
một mẩu truyện giả tưởng, thật ngắn:
Cuối năm Con Dê (2015),
Ngọc Hoàng Thượng Đế mở com pú tờ, vào gú gồ tìm chuyện lớn, để hỏi táo quân
các nơi trong buổi tiếp kiến tất niên. Thấy nổi bật:tin khủng bố làm nổ máy bay
Nga ở Sinai; công an giết người và hành hung luật sư ở Việt Nam. Lại thấy nhiều
bài nói người Việt giống người Do. Thiết triều ngày 23 tháng Chạp, Ngọc Hoàng
hỏi Táo Do Thái:
- Sa mạc Sinai hẹp, sao
dân Do Thái xưa mất 40 năm để vượt qua?
Táo Do Thái thưa:
- Tâu Ngọc Hoàng, vì một
người trong đám dân di tản đánh rơi một quarter.
Ngọc Hoàng vuốt râu cười
hiền: “I see”! Rồi hỏi Táo Việt Tị Nạn:
- Thái Bình Dương rộng,
nay chỉ cần một ngày để vượt qua, sao 40 năm vẫn chưa về giải phóng quê hương?
Táo Việt Tị Nạn thưa:
- Bẩm Ngọc Hoàng, chúng
con còn bận cắm cờ, và...
- Và gì? Ngọc Hoàng hỏi
tiếp.
- Rước cờ, và...
- Gì nữa? Ngọc Hoàng hỏi
thêm.
- Phủ cờ!
Ngọc Hoàng vẫn giữ vẻ uy
nghi, lẩm bẩm một mình: “Đéo hiểu”!
No virus found in this
message.
Checked by AVG - www.avg.com
Version: 2016.0.7227 / Virus Database: 4460/11034 - Release Date: 11/20/15
Checked by AVG - www.avg.com
Version: 2016.0.7227 / Virus Database: 4460/11034 - Release Date: 11/20/15
No virus found in this
message.
Checked by AVG - www.avg.com
Version: 2016.0.7227 / Virus Database: 4460/11034 - Release Date: 11/20/15
Checked by AVG - www.avg.com
Version: 2016.0.7227 / Virus Database: 4460/11034 - Release Date: 11/20/15
__._,_.___
No comments:
Post a Comment