Mời Góp Gió và Phạm Trung Kiên
đọc Tiểu Sử Thích Huyền Quang (Đệ Tứ Tăng Thống) do Võ Văn Ái viết xác nhận cả
nhóm lãnh Đạo Phật Giáo là VC (Liên Khu 5)
Mời Góp Gió và PhạmTrung Kiên đọc nguyên văn Tiểu Sử Đệ Tứ Tăng
Thống Thích Huyền Quang do Võ Văn Ái viết khi Thích Huyền Quang chết năm 2008
(ở dưới) sẽ thấy tất cả cấp lãnh đạo Phật Giáo Thống Nhât (Ấn Quang) đều là
Việt Cộng=Phật Giáo Cứu Quốc Liên Khu 5 của VC...
==========================
Anh
Kha,
Dự
định viết cho anh về vụ Phật Giáo mạnh không cho anh mà bận qua, nên hôm nay mới
viết được cho anh đây. Hôm ấy tôi không đồng ý về việc Phật Giáo là một “tổ chức
rất mạnh” vì tôi biết rõ Phật Giáo chưa bao giờ thống nhất và Phật Giáo Việt
Nam Thống Nhất chỉ là một nhóm do cán bộ Việt Cộng điều khiển, chứ không phải
là tổ chức chính thức:
1.
Phật Giáo chưa
bao giờ thống nhất vì ngay từ lúc Phật Giáo Thống Nhất ra mặt tranh đấu chống
chính quyền Việt Nam Cộng Hòa thì đã có ít nhất 2 tổ chức là Phật Giáo Cổ Sơn
Môn và Phật Giáo Thiền Tịnh Đạo Tràng công khai tuyên bố chống lại. Sau đó thì
Tổng Hội Phật Giáo cũng ra mặt chống lại, rồi Phật Giáo Nguyên Thủy… Đó là
những tổ chức Phật Giáo thuần túy tôn giáo, họ chống lại việc lợi dụng Phật
Giáo xách động đấu tranh chính trị. Sau đó, thì Thích Tâm Châu và Hội Phật Học
của Chánh Trí Mai Thọ Truyền cũng rút ra sau khi biết nhóm Thống Nhất là Việt
Cộng. Cụ Mai Thọ Truyền là bố của nhà hóa học Mai Thanh Truyết, hiện ở Nam
California, chuyên phản bác Việt Cộng về chất Da Cam gây độc và ung thư hay tật
bẩm sinh cho người tiếp xúc. Ngoài ra, có kỹ sư Nông Lâm Súc Lưu Trường Kiện
(cùng khóa với cháu Trần Xuân Tú) ở San Jose xác nhận rằng chính anh ta từng
làm việc với chất Da Cam hàng ngày và dùng tay không, không cần đeo găng tay mà
chẳng thấy độc và gây ung thư như VC tuyên truyền, vì tác dụng của chất da cam
chỉ chống việc lưu dẫn nhựa nguyên chạy lên lá “biến dưỡng” thành nhựa luyện,
do đó lá bị rụng chứ cây không chết…).
2.
Theo tiểu sử
Thích Huyền Quang (do Võ Văn Ái viết) thì Thích Huyền Quang là học trò Thích
Trí Độ cùng học với Thích Trí Quang, Thích Thiện Hoa, Thích Thiện Hòa, Thích
Thiện Quảng Liên, Thích Thiện Minh (bị VC mưu sát, không chết nhưng sau chết
trong tù VC), Thích Pháp Siêu, Thích Hộ Giác v..v… tức là Đám Phật Giáo Cứu
Quốc Liên Khu 5 Việt Cộng… Thích Trí Độ theo VC ra Bắc năm 1954, đóng vai lãnh
đạo Phật Giáo Quốc Doanh, ở Chùa Quán Sứ Hà Nội. Nghĩa là chỉ có Phật Giáo
Trung Kỳ (do Thích Trí Độ lãnh đạo theo VC, trong khi đó Phật Giáo Bắc Kỳ và
Nam Kỳ không theo cộng sản. Nhóm Phật Giáo Trung Kỳ này hoàn toàn là Việt Cộng
điều khiển cuộc tranh đấu chống Việt Nam Cộng Hòa chứ không phải Phật Giáo, do
đó tôi không đồng ý là lúc đó Phật Giáo có thế lực lớn. GS Phạm Quang Minh (ỏ
San Jose) từng lên diễn đàn Cộng Đồng đích danh tố VC chủ mưu cho nổ trái mìn ở
Đài Phát Thanh Huế năm 1963 vì trước đó ở Chùa Từ Đám đám sư VC đã rỉ tai bảo
mọi người đến Đài Phát Thanh Huế “sẽ có chuyện lạ”. Lúc đó Phạm Quang Minh ở
chùa Từ Đàm và sau đó lên Đài Phát Thanh Huế nên biết rõ vụ này. Chuyện lạ sau
này Bùi Quang Minh mới biết là chúng cho nổ mìn để gây chết chóc rồi đổ tội cho
chính quyền quốc gia.. (đây là sở trường của Cộng Sản học của Hồi Giáo, nhưng
bây giờ lại đang học lại sách lược này của Cộng Sản). Tóm lại, tôi cho rằng
chưa bao giờ Phật Giáo “mạnh” mà “chỉ mạnh là do cán bộ cộng sản điều khiển,
dàn dựng mà thôi…
Anh
đọc hai tài liệu dưới đây thì sẽ thấy rõ Phật Giáo Ấn Quang chỉ là nhóm Phật Giáo
Cứu Quốc và đám đó chỉ bị Việt Cộng lợi dụng, muốn được VC trọng dụng, đền đáp
ơn tranh đấu giúp VC chiến thắng… Bức Thư Thích Huyền Quang gửi nhà nước Việt
Cộng năm 1992 đã bị Võ Văn Ái cắt bớt nhiều phần “quan trọng” lộ liễu sau khi
bị đồng bào lên án Nhóm Phật Giáo Ấn Quang là Việt Cộng, viết thư kể công với
VC. Anh đã được đọc bức thư ấy, vậy anh vui lòng cho biết có những điều nào bị
Võ Văn Ái cố tình “lướt qua” vì bị người ta “lên án” nhóm Phật Giáo Ấn Quang theo
VC do chính Thích Huyền Quang xác nhận trong thư gửi nhà nước VC.
Tóm
lại Phật Giáo chưa bao giờ mạnh mà là VC mạnh nắm Phật Giáo làm bung xung… Bây giờ
Phật Giáo càng không mạnh vì Thích Trí Độ kêu gọi “Phật Tử” hưởng ứng tranh đấu
mà chẳng có ma nào hưởng ứng…
Sắc
Tài liệu dưới gồm 2 phần:
- Tiểu sử Thích
Huyền Quang
- Thư Thích Huyền Quang
gửi nhà nước Việt Cộng kể công tranh đấu cộng tác với VC
Thân thế
Đại lão Hòa thượng Thích Huyền
Quang, Đệ tứ Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, thế danh Lê
Đình Nhàn, sinh ngày 8 tháng 8 Canh Thân, tức 19 tháng 9 năm 1920, tại làng Háo
Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định, con thứ tư của cụ Lê Vỵ và bà
Ngô Thị Tư cùng ở làng Háo Đức.
Thời niên thiếu
Năm 1925-1932 : Ngài học chữ Nho tại
nhà.
Năm 1932-1935 : Ngài thụ giáo với
Hòa thượng Vĩnh Khánh, được ban pháp danh Như An, pháp tự Giải Hòa. Thọ sa-di
giới năm 1935, thủ khoa trong tập chúng.
Năm 1935-1937 : Hòa thượng Vĩnh
Khánh viên tịch (30.9.1935), Ngài đầu giáo Hòa thượng Bích Liên và được phú
pháp hiệu Huyền Quang, pháp danh Ngọc Tân, pháp tự Tịnh Bạch.
Do tư chất đặc biệt xuất chúng, mà
Ngài được đặc cách miễn tuổi để thọ Tam đàn Cụ túc và Bồ tát giới vào năm 17
tuổi (1937) tại giới đàn chùa Hưng Khánh, thuộc quận Tuy Phước, tỉnh Bình Định,
do Hòa thượng Chí Bảo làm Đàn đầu. Kỳ sát hạch này Ngài đậu thủ khoa.
Năm 1938 đến 1945, Sau khi học xong
ở Phật học đường Lưỡng Xuyên, tỉnh Trà Vinh, Ngài ra đất Thần kinh Huế tòng học
tại Phật học đường Báo Quốc [của Thượng Tọa Thích Trí Độ (lãnh đạo Phật Giáo
Quốc Doanh ở chùa Quán Sứ Hà Nội)] cùng với các Pháp hữu Thiện Hoa, Thiện Hòa,
Thiện Siêu, Trí Quang, Thiện Minh, v.v… (đây là một lô học trò của Thích Trí
Độ, tức Việt Cộng)
Công nghiệp Hoằng hóa lợi
sanh
Tháng 8 năm 1945, Ngài tham gia
kháng chiến chống Pháp giành độc lập dân tộc ở Liên khu 5, giữ chức vụ Phó chủ
tịch kiêm Tổng thư ký Phật giáo Cứu quốc Liên khu 5. Do Ngài tổ chức cơ sở Phật
giáo quy mô nên bị chính quyền cách mạng lâm thời nghi kỵ và theo dõi.
Đầu năm 1951, Ủy ban Kháng chiến
liên khu 5 tuyên bố : “Sinh hoạt Phật giáo phải theo mô thức Hội đoàn”. Ngài
lên tiếng phản đối : “Phật giáo chúng tôi là một tôn giáo quy tụ đủ mọi thành
phần trí thức, nông dân, nam, phụ, lão, ấu, không thể xem như hội đoàn. Vì phê
phán như vậy, ngài bị bắt, bị an trí ở Phù Mỹ, rồi Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi,
tổng cộng 4 năm trời ! Một tháng trước ngày đình chiến theo Hiệp định
Genève (20.7.1954) Ngài được trả tự do.
Năm 1955 đến 1957, Ngài làm Giám đốc
Phật Học Đường Trung phần ở chùa Hải Đức, Nhatrang.
Năm 1958 Ngài khai sáng Tu viện
Nguyên Thiều, thành lập Phật học viện Nguyên Thiều do Ngài làm Giám viện cho
đến ngày nay.
Năm 1958 đến 1962, Ngài giữ chức Phó
Hội Trưởng Hội Phật Học Trung Phần kiêm Hội trưởng Hội Phật giáo Thừa thiên –
Huế, văn phòng đặt tại chùa Từ Đàm. Sau đó Ngài làm Hội Trưởng Hội Phật Giáo
Bình Định.
Năm 1963 Ngài tham gia cuộc vận động
giải trừ Pháp nạn và yêu sách xóa bỏ Dụ số 10 dưới thời Pháp thuộc liệt Phật
giáo vào quy chế Hiệp hội. Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo ra đời lãnh đạo
cuộc đấu tranh. Uỷ ban do Hòa Thượng Thích Tâm Châu làm Chủ tịch, cố Hòa Thượng
Thích Thiện Minh làm Phó chủ tịch, Ngài làm Tổng thư ký kiêm Trưởng khối Soạn
thảo tài liệu đấu tranh và Phổ biến ra toàn quốc.
Vào nửa đêm 20.8.1963, Chính quyền
Ngô Đình Diệm tung “Kế hoạch Nước lũ” bố ráp Tăng, Ni trên toàn quốc, tập trung
đặc biệt vào hai thành phố Saigon và Huế, Ngài bị bắt cùng với hàng nghìn Tăng
Ni. Sau chính biến 1.11.1963, Ngài mới được trả tự do.
Cuộc đấu tranh hoàn tất, Đại hội
Phật giáo toàn quốc tổ chức tại Saigon từ 31.12.63 đến 4.1.64, và do Dụ số 10
đã hủy bỏ, nên danh xưng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được ra đời, kế
tục công cuộc truyền thừa Chánh pháp của “Giáo hội Dân lập” từ xưa và “Tổng hội
Phật giáo Việt Nam” trước đây. Ngài được cung thỉnh vào chức vụ Tổng thư ký
Viện Hóa Đạo kiêm Tổng vụ trưởng Tổng vụ Cư sĩ.
Năm 1964, Ngài đi Thái Lan tiếp xúc
và liên lạc các chùa Việt ở thủ đô Bangkok đồng thời hành hương các thánh tích,
thắng cảnh Phật giáo Thái.
Năm 1970, Ngài đại diện Viện Hóa Đạo
tham dự Đại Hội Các Tôn Giáo Thế Giới vì Hòa bình lần thứ nhất tại Nhật Bản.
Đại hội này do các tôn giáo lớn như Công giáo, Tin Lành, Do Thái giáo, v.v… chủ
trì.
Năm 1971, Ngài đi hành hương Ấn Độ,
chiêm bái các Phật tích.
Năm 1972, Ngài sang Genève tham dự
Đại Hội Hội Đồng Tôn Giáo Thế Giới ở Thụy Sỹ. Hội Đồng này do Tin Lành giáo Thế
giới chủ trì. Đại Hội bàn việc hòa bình cho Việt Nam và cứu trợ nạn nhân chiến
tranh.
Năm 1974, Ngài cùng Cố Hòa thượng
Thích Thiện Minh sang thủ đô Bruxelles ở Bỉ dự lần thứ 2 Đại hội các Tôn giáo
Thế giới vì Hòa Bình do các tôn giáo lớn như Công giáo, Tin Lành, Do Thái giáo,
v.v… chủ trì.
Ngày 27.12.1974, Đại hội Giáo hội
Phật giáo Việt Nam Thống nhất kỳ 6 tổ chức tại Saigon cung thỉnh Ngài vào chức
vụ Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo.
Sau năm 1975, do chính sách Cộng sản
đàn áp Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, chiếm dụng tất cả các cơ sở của
Giáo hội, từ chùa viện cho đến các cơ sở giáo dục văn hóa và xã hội từ thiện,
khiến 12 Tăng Ni tự thiêu tập thể để phản đối vào ngày 2.11.1975 tại Thiền viện
Dược sư, ấp Tân Long, xã Tân Bình, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ. Ngài cử Hòa
thượng Thích Quảng Độ, Tổng thư ký Viện Hóa Đạo, dẫn đầu một phái đoàn về Cần
Thơ lập hồ sơ. Nhưng toàn bộ hồ sơ gồm các chứng liệu, băng từ ghi 7 lời thỉnh
nguyện của Đại đức Thích Huệ Hiền trước khi tự thiêu, hình chụp và phim quay
tại hiện trường đều bị công an tịch thu.
Ngày 3.3.1977, nhà nước tiến thêm
một bước chiếm dụng Cô Nhi viện Quách Thị Trang ở Saigon, Ngài và Hòa thượng
Thích Quảng Độ cùng chư tôn đức Tăng, Ni, Phật tử phát động cao trào đòi hỏi
Nhà nước cộng sản hoàn trả tài sản của Giáo hội. Cuộc đấu tranh gay go và bị
Nhà cầm quyền thẳng tay đàn áp.
Ngày 6.4.1977, Ngài bị bắt và bị
biệt giam tại Nhà giam số 4 Phan Đăng Lưu, Quận Bình Thạnh ở Sàigòn cùng với cố
Hòa thượng Thích Thiện Minh, Hòa thượng Thích Quảng Độ, v.v… Do áp lực quốc tế
và sự phản đối của đồng bào Phật tử trong và ngoài nước, nên sau 18 tháng tù
giam, ngày 10.12.1978 Nhà cầm quyền cộng sản đưa ngài ra Tòa án Nhân dân thành
phố Hồ Chí Minh xét xử, kêu án 2 năm tù treo và quản chế tại chỗ.
Năm 1978, hai Giải Nobel Hòa bình
người Ái Nhĩ Lan là bà Mairead Corrigan và bà Betty Williams viết thư cho Uỷ
ban Nobel Hoà bình đề nghị Ngài và Hòa thượng Thích Quảng Độ làm ứng viên Giải
Nobel Hòa bình.
Do phản đối Đảng và Nhà nước thiết
lập vào cuối năm 1981 một Giáo hội Phật giáo làm công cụ chính trị phục vụ Đảng
và chia rẽ nền Phật giáo dân tộc, nên Ngài cùng Hòa thượng Thích Quảng Độ bị
bắt ngày 25.2.1982 và bị trục xuất khỏi thành phố Saigon, đưa Ngài ra quản chế
tại chùa Hội Phước, tỉnh Quảng Ngãi. Tại Quảng Ngãi, Ngài nhận lệnh Công an :
cấm hành nghề Tôn Giáo, cấm phiên dịch và các nghề nghiệp khác. Tại đây Ngài bị
nhà đương quyền quyền đối xử tồi tệ.
Kể từ năm 1990, các Nhóm Ân xá Quốc
tế thuộc 5 quốc gia Vương quốc Bỉ, Canada, Pháp, Áo, Hoà Lan và Hoa Kỳ ghi danh
Ngài như Người tù vì lương thức để bêng vực bằng cách gửi liên tục hàng chục
nghìn bức thư cho nhà cầm quyền Hà Nội để đòi hỏi trả tự do cho Ngài.
Năm 1992, Cố Đại Lão Hòa thượng
Thích Đôn Hậu, Đệ Tam Tăng Thống Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, đau
nặng, sắp ra đi về cõi Phật, nên để lại Di chúc cung thỉnh Ngài vào chức vụ Xử
lý Hội đồng Lưỡng viện kiêm Quyền Viện trưởng Viện Hóa Đạo, để hướng dẫn việc
đòi hỏi phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống
nhất và tìm thuận duyên tổ chức Đại hội Giáo hội kỳ VIII.
Ngày 21 tháng 3 Nhâm thân, tức
23.4.1992, Đức Đệ Tam Tăng thống Thích Đôn Hậu viên tịch tại chùa Linh Mụ. Ngài
xin ra Huế dự đám tang, nhưng chính quyền Quảng Ngãi không cho đi. Ngài tuyên
bố : “Nếu chính quyền Quảng Ngãi ngăn cấm tôi ra Huế dự tang lễ, tôi sẽ tuyệt
thực vô thời hạn, và sẵn sàng cúng dường thân này lên Chư Phật và tạ lỗi với Cố
Đại Lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu, bởi vì tôi đã không làm tròn nhiệm vụ mà Hòa
Thượng giao phó”. Sau hai ngày tuyệt thực, chính quyền đành phải để cho Ngài ra
Huế.
Hòa thượng Thích Nhật Liên, Trưởng
tử của Môn đồ hiếu quyến Đức Đệ Tam Tăng thống, trao lại cho Ngài ấn tín Giáo
hội và Di chúc của Cố Đại lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu. Ngài dâng lời Tác bạch
trước kim quan Đức Đệ Tam Tăng thống với lời hứa linh thiêng : “Dầu sẽ có muôn
ngàn khó khăn, ngài không bao giờ chồn bước, quyết vận động đòi hỏi Nhà cầm
quyền Cộng sản phải để cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất phục hồi
quyền sinh hoạt pháp lý như trước năm 1975”.
Ngày 25.6.1992, Ngài viết Yêu sách 9
điểm, dài 9 trang, gửi 6 cơ quan lãnh đạo Nhà nước nói lên thảm trạng Giáo hội
Phật giáo Việt Nam Thống nhất bị kỳ thị và đàn áp trong suốt 18 năm ròng rã, tố
giác việc tù đày, khủng bố hàng giáo phẩm như Cố Hòa thượng Thích Thiện Minh,
Hòa thượng Thích Quảng Độ, v.v… , tố giác Đảng và Nhà nước dựng lên Giáo hội
Phật giáo Việt Nam làm công cụ chính trị cho Đảng với manh tâm chia rẽ khối
Phật giáo dân tộc và tiêu diệt Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Yêu sách
9 điểm mở đầu cuộc vận động Giải trừ Pháp nạn.
Ngày 15.11.1992, Ngài viết “Đơn bổ
túc Đơn đề ngày 25.6.1002 trình bày các việc liên hệ Mặt trận Tổ quốc”. Văn
kiện này gửi Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc và đồng kính gửi Tổng
bí thư Đảng, Chủ tịch Nước, Thủ tướng và Viện trưởng Tối cao Pháp viện. Ngài
nhắc đến các lần ngài bị bắt và bị tố khổ từ những năm 50 tại Liên khu 5 cho
đến ngày hôm nay.
Ngày 17.8.1992, từ Hà Nội, Ông Phan
Văn Tánh, Trưởng ban Dân vận Trung ương gửi cho các Ban Dân vận, các Tỉnh ủy và
Thành ủy một tài liệu “Mật” mang số 125/TUDV “về việc Huyền Quang và số phần tử
hoạt động chống đối”, nhằm chỉ thị cho Giáo hội Phật giáo Nhà nước tố
cáo Ngài, và chỉ thị cho công an địa phương, đặc biệt ở Quảng Ngãi, theo dõi
quan hệ trong và ngoài nước của Ngài, kiểm soát và “đấu tranh mạnh mẽ hơn” đối
với Ngài.
Ngày 18.8.1992, một tài liệu “Tuyệt
mật” mang số 106/PA 15-16 của Bộ Nội vụ đưa ra 5 biện pháp đấu tranh chống Phật
giáo : “1. Phân hóa cao hàng ngũ giáo sĩ ; 2. tranh thủ số có xu hướng tiến bộ,
lôi kéo số lưng chừng, răn đe những đối tượng có biểu hiện tiêu cực ; 3. đối
với số cực đoan chống đối phải cắt đứt chân tay, lấy giáo luật, pháp luật đấu tranh,
không cho chúng co cụm chống phá ta ; và 4. thúc đẩy phong trào cách mạng trong
vùng giáo, củng cố được nòng cốt, cốt cán của ta đặc biệt trong Tăng tín đồ
Phật giáo (mà sau này họ gọi là đặc tình, tình báo làm công tác đặc biệt)”.
Trọng tâm tài liệu nhắm vào Ngài.
Ngày 4.8.1993, Ủy ban Nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi nêu ra 6 điều kết tội Ngài, đồng thời cấm Ngài không được sử dụng
chức vụ Quyền Viện trưởng Viện Hóa Đạo, không được sử dụng chùa Hội Phước làm
trụ sở Văn phòng Lưu vong Viện Hóa Đạo, và bắt phải giao nộp khuôn dấu Viện Hóa
Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Ngày 20.11.1993, Ngài viết “Tuyên cáo Giải trừ Quốc nạn và Pháp
nạn”, với nhận thức quốc nạn chưa giải trừ thì pháp nạn không thể giải
quyết. Ngài đưa ra 12 điểm phê phán khách quan về sự bế tắc của tình hình Việt
Nam do Nhà nước cộng sản gây ra. Rồi Ngài đề xuất 9 biện pháp trị liệu, kêu gọi
Đảng và Nhà nước “Sám hối
với người chết trong tinh thần hứa lo cho người sống được sống người”, “bỏ điều 4 trên Hiến pháp” và
tổ chức “bầu lại Quốc hội
với sự tự do tham gia ứng cử của toàn dân không phân biệt chính kiến, đảng
phái, tôn giáo dưới sự giám sát của LHQ”.
19.10.1998 Giáo sư Abdelfatah Amor,
Báo cáo viên LHQ đặc nhiệm tự do tôn giáo trên thế giới đến Việt Nam điều tra
tình hình đàn áp tôn giáo đã yêu cầu gặp Ngài tại Quảng Ngãi nhưng nhà cầm
quyền Hà Nội không cho phép.
Ngày 10.5.1998, bốn Giải Nobel Hòa
bình gồm có Đức Dalai Lama (Tây Tạng), Bà Mairead Maguire (Ái Nhĩ Lan), Nhà Bác
học Francois Jacob (Pháp) và Luật sư José Ramos-Horta (Đông Timor) thành lập “Ủy ban các Nhà lãnh giải Nobel Vận
động trả tự do cho Nhị vị Hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ”, và
viết thư chung vào đúng ngày Phật đản 2542, 10.5.1998, gửi Tổng Bí thư Lê Khả
Phiêu, Chủ tịch Nước Trần Đức Lương và Thủ tướng Phan Văn Khải yêu sách trả tự
do cho hai Ngài và hàng giáo phẩm Phật giáo.
Ngày 12.12.1999, ông David Young,
Tham tán Chính trị tại Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Hà Nội vào Quảng Ngãi vấn an Ngài.
Đây là người Tây phương đầu tiên được viếng thăm Ngài và hỏi han tình hình Phật
giáo sau 17 năm Ngài bị cấm cố, mở đầu cho những tiếp xúc khác với Tây phương
sau này.
Ngày 21.4.2000, Ngài viết bức thư
dài gửi Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Thủ tướng Phan
Văn Khải và Chủ tịch Quốc hội Nông Dức Mạnh, đề nghị Đảng và Nhà nước lấy ngày
30 tháng Tư làm “Ngày Sám
hối và Chúc sinh toàn quốc”.Sám hối trước sự chết chóc qua các chiến cuộc
của hàng triệu Bộ đội miền Bắc và Binh sĩ miền Nam, hàng trăm nghìn nạn nhân
chết trong cuộc Cải cách Ruộng đất, Tổng tiến công Tết Mậu Thân tại Huế, và các
cuộc hành quyết trong các Trại Cải tạo sau năm 1975. Sám hối với người chết và
Chúc sinh người sống, trong nghĩa Linh quyền cho người chết và Nhân quyền cho
người sống. Ngài đòi hỏi phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý cho Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất, trả tự do cho tất cả tù nhân vì lương thức, và bải bỏ
Nghị định quản chế hành chính 31/CP.
Tháng 4 năm 2001 do Tổ Hành động
chống bắt bớ trái phép của LHQ (UN Working Group on Arbitrary Detention) phúc
trình, Uỷ hội Nhân quyền LHQ tuyên bố Quan điểm số tham chiếu 4/2001 công nhận
Ngài và Hoà thượng Thích Quang Độ là hai tù nhân tôn giáo bị bắt bớ trái phép.
Do nhà cầm quyền Hà Nội hồi âm thư LHQ nói hai ngài vẫn được tự do trái với sự
thực, nên vài năm sau, ngày 25.5.2005 Uỷ hội Nhân quyền LHQ lại một lần nữa xác
nhận Ngài và Hoà thượng Thích Quang Độ là hai tù nhân tôn giáo bị bắt bớ trái
phép (Quan điểm số tham chiếu 18/2005).
Ngày 11.2.2003, Ủy viên Đối ngoại
của Hội đồng Châu Âu, ông Chis Patten tuyên bố : “Hội đồng Châu Âu và các Quốc
gia thành viên kêu gọi Nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do cho nhị vị Hòa thượng
Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ, yêu cầu Hà Nội để cho các nhà ngoại giao
thuộc phái đoàn Liên hiệp Châu Âu tại Việt Nam đến thăm viếng hai Hòa thượng
lãnh đạo Phật giáo.
Tháng 3 năm 2003, Ngài bị khối u gần
mắt có nguy cơ ung thư, bệnh viện Quảng Ngãi không đủ phương tiện giải phẫu,
Ngài muốn vào Saigon chữa trị. Nhưng bệnh viện Quy Nhơn và cơ quan công quyền
tự ý tổ chức cho Ngài ra Hà Nội. Thời gian điều trị ở bệnh viện K ở đường Quán
Sứ, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, các viên chức cao cấp Tòa Đại sứ Hoa Kỳ và Liên
hiệp Châu Âu đến vấn an Ngài bên giường bệnh.
Ngày 17.3.2003, 31 vị Dân biểu Quốc
hội Châu Âu viết thư cho Nhà cầm quyền Hà Nội yêu cầu để cho họ đến Việt Nam
thăm bệnh Ngài và viếng thăm Hòa thượng Thích Quảng Độ. Đầu tháng tư, 37 Dân
biểu Quốc hội Hoa Kỳ cũng viết thư yêu sách Hà Nội trả tự do cho Ngài và Hòa
thượng Thích Quảng Độ.
Trước mối quan tâm tha thiết của
công luận quốc tế, chiều ngày 2.4.2003, Thủ tướng Phan Văn Khải tiếp Ngài tại
Văn phòng Chính phủ. Trong câu chuyện, Ngài hỏi Thủ tướng lý do Đảng và Nhà
nước ngăn cấm Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất hoạt động ? Lý do bắt bớ
Ngài từ dưới thời Việt Minh ở Liên khu 5 ? Lý do bắt giam Hòa thượng Thích
Quảng Độ cùng nhiều vị tôn túc Tăng Ni và Phật tử ? Rồi Ngài yêu cầu Thủ tướng
giải quyết việc phục hồi quyền sinh hoạt cho Giáo hội bị ngăn cấm gần ba mươi
năm qua. Thủ tướng Phan Văn Khải không trả lời dứt khoát, đổ lỗi cho cán bộ
thừa hành cấp dưới và tuyên bố : “Chúng tôi cũng biết có sai lầm, xin Hòa thượng
từ bi hoan hỷ”.
Sáng ngày 7.4.2003, Ngài đáp chuyến
xe lửa Hà Nội – Saigon xuôi Nam. Đến ga Huế vào lúc 10 giờ 13 phút. Dù Ngài
không thông báo trước, nhưng vừa bước xuống tàu Ngài đã thấy 2000 Tôn đức Tăng
Ni, Phật tử Huế cung nghênh tiếp đón giữa rừng người áo vàng, áo tràng lam,
hàng trăm bó hoa khoe sắc vẫy cao, chen cùng cờ Phật giáo năm màu phấp phới.
Ngày hôm sau, Ngài đến đảnh lễ trước tháp Đức Cố Đệ Tam Tăng thống Thích Đôn
Hậu, trước tháp Cố Hòa thượng Thích Thiện Minh, và thăm các Tổ đình ở đất Thần
kinh, ân cần nhắn nhủ chư Tăng Huế trên bước đường tu và hành đạo.
Ngày 9.4.2003, Ban Giám đốc Quỹ Cứu
Người Lâm Nạn (People in Need) tại thủ đô Praha, Tiệp, do cựu Tổng thống Vaclav
Havel chủ trì, quyết định trao Giải Nhân quyền cho Ngài, Hòa thượng Thích Quảng
Độ để biểu tỏ lòng kính trọng và sự hậu thuẫn hai Nhà đối kháng cho Dân chủ tại
Việt Nam đang kiên trì bằng con đường bất bạo động Phật giáo nhằm chuyển hóa
dân chủ trên đất nước họ. Giải này mang tên “Người cho Người” (Homo Homini),
phát hằng năm cho những nhà đấu tranh nổi danh cho nhân quyền và dân chủ trong
thế giới.
Ngày 1.5.2003, Ngài vào Saigon, dự
tính về chùa riêng ở Saigon, nhưng Nhà cầm quyền chỉ định Ngài phải về tá túc
chùa Ấn Quang và ra lệnh cho Ban Trị sự Thành hội Phật giáo Thành phố đón tiếp
Ngài. Không ai loan báo trước, nhưng trên một nghìn chư Tăng Ni, Phật tử đã tự
động đến chùa Ấn Quang gặp ngài.
Trong thời gian ở Saigon, ba lần
(ngày 3, ngày 9 và 12.5.2003), Ngài đến Thanh Minh Thiền viện vấn an Hòa thượng
Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, đang bị nhà cầm quyền cách ly không
cho tiếp xúc với bất cứ ai. Hai Ngài xa cách nhau bao nhiêu năm ròng vì án lệnh
quản chế và tù đày, nay mới được trực tiếp bàn thảo việc chấn chỉnh nội bộ Giáo
hội sau thời gian dài bị tê liệt vì ngoại chướng.
Ngày 9.5.2003, vào lúc 16 giờ, Bà
Tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại Saigon, Emi Lynn Yamauchi, đến vấn an Ngài. Cùng đi có
ông Marc Forino, Cố vấn Chính trị, và bà Laura H. Kirkpatrick, Cố vấn Kinh tế.
Thành hội Phật giáo Nhà nước long
trọng mời Ngài ở lại Saigon tham dự lễ Phật Đản, nhưng Ngài từ khước và trở về
Tu Viện Nguyên Thiều vào ngày 14.5.2003, cưu mang những dự án mới chấn chỉnh
giáo hội.
Ngày 18.9.2003, Hòa thượng Thích
Quảng Độ ra Tu Viện Nguyên Thiều thăm Ngài và ở lại 3 tuần lễ. Thời gian này
nhiều phái đoàn chư Tăng các tỉnh miền Trung và miền Nam nghe tin cũng tấp nập
về Bình Định vấn an, thỉnh ý cho việc phục hưng Giáo hội. Nhân đó hai Ngài họp
bàn việc bổ sung nhân sự vào Hội Đồng Lưỡng Viện trong Gíao hội Phật giáo Việt
Nam Thống nhất cũng như tại các cơ sở địa phương.
Ngày 1.10.2003, Ngài và Hòa thượng
Thích Quảng Độ tổ chức Đại hội Bất thường tại Tu viện Nguyên Thiều. Lần đầu
tiên có sự tham dự đông đảo của 60 chư Tăng đại diện các tỉnh về dự. Đại hội
Bất thường thành công viên mãn với sự thỉnh cử 41 Hòa thượng, Thượng tọa vào
hai Viện Tăng thống và Viện Hóa Đạo. Mấy lời ứng khẩu của Ngài trong lễ bế mạc
Đại hội gây hưng phấn cho tất cả các đại biểu :
“Bao năm khó khăn quý vị
biết rồi. Khó khăn từ cán bộ cao cấp cho đến cán bộ cơ sở. Nhưng mà thời gian đã
gỡ rối các sự khó khăn đó cho chúng ta trong thời gian qua. Và trong tương lai,
nếu còn gì khó khăn nữa, dù chúng ta không chờ cái đó, nhưng mà nếu cái đó không
may xảy đến, thì chúng ta phải dạn dĩ chịu đựỉng và tiếp tục chịu đựng, để
chúng ta có mặt với Giáo hội.
“Chúng ta làm thế nào cho
đạo Phật phát triển hơn nữa, đạo Phật phát triển hơn nữa không giành quyền lợi
của ai, không chiếm địa vị của ai, mà chỉ đem đạo Phật – đạo Từ Bi Hỷ Xả
– giải thoát đau khổ cho chúng sinh nói chung và dân tộc Việt Nam nói
riêng.
“Mong rằng tất cả những khó
khăn trong tương lai, sẽ còn có ít nhiều chứ không phải không có, nhưng chuyện
đó đối với chúng ta, chúng ta đã dày dạn lắm rồi. Không có gì phải ngại, không
có gì phải bỏ cuộc. Mong rằng Đại hội đem lại cho quý vị một Niềm Tin mới sau
mấy mươi năm không hoạt động và đầy gian lao, đầy tù tội cùng khắp trên đất nước.
“Thưa quý vị, chúng ta là
những người có thể nói rằng, chúng ta có thể bỏ danh, bỏ lợi, bỏ quyền, bỏ thế,
thì chúng ta cũng chẳng ngại gì những khó khăn trong tương lai, nếu có. Trông
mong quý vị nhất tâm và tích cực hơn nữa để giữ Giáo hội có mặt với dân tộc”.
Ngài ban Giáo chỉ cho Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Hải ngoại tại Hoa Kỳ – Văn phòng II Viện Hóa Đạo và Giáo hội tại
các Châu tổ chức Đại hội để nối tiếp khai triển và kết thúc các công tác đề ra
tại Tiền đại hội bất thường tổ chức trong nước ở Tu viện Nguyên Thiều, tỉnh
Bình Định hôm 1.10.2003.
Công việc đang tiến hành tốt đẹp,
thì Hòa thượng Thích Quảng Độ bị công an làm khó dễ buộc phải rời Tu viện
Nguyên Thiều về lại Sàigòn. Hòa thượng đành ra về ngày 8.10.2003, Ngài cùng đi
với Hòa thượng Quảng Độ và chư Tăng giáo phẩm.
Ngày 9.10.2003, xe chạy đến Lương
Sơn cách thành phố Nhatrang 40 cây số, thì công an chận bắt tất cả mười vị và
hai Phật Tử. Sáu công an và đại diện Mặt trận thay phiên nhau hỏi cung và khám
xét thân thể Ngài một cách bất lịch sự trong vòng 8 tiếng đồng hồ, cho đến lúc
Ngài đuối sức, khàn cả tiếng, họ mới cho lệnh dẫn độ Ngài về lại Tu viện Nguyên
Thiều vào lúc 23 giờ 30 khuya.
Ngày 21.10.2003, Giám đốc Công an
Bình Định đến yêu cầu Ngài từ nhiệm mọi chức vụ trong Giáo hội Phật giáo Việt
Nam Thống nhất, chấm dứt liên lạc với Hòa thượng Thích Quảng Độ, thì Nhà nước
sẽ mời Ngài ra thăm Hà Nội trở lại để bàn tính việc hợp tác với Giáo hội Phật
giáo Việt Nam và sẽ trao cho Ngài những chức vụ cao cấp. Ngài khước từ.
Trong khi ấy, rộng khắp từ trong
nước ra đến hải ngoại và quốc tế, một phong trào phản đối nổi lên, đồng loạt tổ
chức tuyệt thực phản kháng trước các tòa Đại sứ, Lãnh sự quán của Cộng sản Việt
Nam liên tục trong nhiều tuần lễ với khầu hiệu : “Đừng sợ nữa, hãy dõng mãnh và Vô úy
đưa con thuyền Giáo hội lướt qua phong ba bão táp !”.
Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt
Nam và Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế kết hợp với Giáo hội Phật giáo Việt
Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ – Văn phòng II Viện Hóa Đạo mở cuộc vận
động khẩn cấp và sâu rộng tại Quốc hội Hoa Kỳ và Quốc hội châu Âu đưa tới thành
quả là ngày 19.11.2003 Hạ viện Hoa Kỳ thông qua với đa số áp đảo “Quyết nghị
427” tán thán sự kiên cường của hàng giáo phẩm lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt
Nam Thống nhất, một Giáo hội dân lập và có truyền thống 2000 năm lịch sử, và
yêu sách Nhà cầm quyền Hà Nội trả tự do cho Đức Tăng thống Thích Huyền Quang,
Hòa thượng Thích Quảng Độ và chư tôn giáo phẩm trong Hội động Lưỡng viện cũng
như phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
nhất. 24 giờ đồng hồ sau, ngày 20.11.2003, Quốc hội Âu châu thông qua Quyết
nghị tương tự với đa số tuyệt đối.
Ngày 28.4.2004, vào lúc 10 giờ 50
sáng, ông Raymond Burghart, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam cùng phu nhân đến Tu
viện Nguyên Thiều ở Bình Định vấn an Ngài và hàn huyên thân mật trên một tiếng
đồng hồ. Ngài nhân danh Giáo hội ngỏ lời cám ơn ông Đại sứ, Chính phủ, Quốc hội
và nhân dân Hoa Kỳ đã lưu tâm đến vấn đề tôn giáo tại Việt Nam, đặc biệt đã
không ngừng lên tiếng bênh vực mỗi khi Ngài và Hòa thượng Thích Quảng Độ lâm
nạn.
Ngày 15.9.2004 Ngoại trưởng Hoa Kỳ
Colin L. Powell công bố đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia đàn áp tôn giáo
trong thế giới “đặc biệt cần quan tâm”, vì Việt Nam “dùng các biện pháp độc tài
toàn trị hay độc đoán để kiểm soát những hoạt động tín ngưỡng và nghi thức tôn
giáo”. Các nước bị liệt kê vào danh sách đen sẽ bị Hoa Kỳ áp dụng các biện pháp
chế tài trên lĩnh vực kinh tế và tài chánh, nếu không chịu thay đổi chính sách
đàn áp tôn giáo.
Ngày 18.11.2004, Ngài bị xuất huyết
dạ dày nặng nên phải vào Bệnh viện Đa khoa ở Quy Nhơn cấp cứu. Các chùa viện
trong và ngoài nước đồng loạt làm lễ cầu an cho Ngài. Cảm động nhất là ở hải
ngoại nhiều Phật tử đã mua chim, cá phóng sinh để cầu nguyện cho Ngài sớm bình
phục.
Ngày 21.11.2004, Tân Đại sứ Hoa Kỳ,
ông Michael W. Marine cùng với phu nhân từ Hà Nội vào bệnh viện Đa khoa ở Quy
Nhơn thăm bệnh Ngài. Cùng ngày này, tại Saigon, Phái đoàn Bộ Ngoại giao Hoa kỳ
đến vấn an Hòa thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất, tại Thanh Minh Thiền viện trong vòng hai tiếng đồng
hồ.
Ngày 22.11.2004, Hòa thượng Thích
Quảng Độ cùng với phái đoàn Hội đồng Lưỡng viện lên đường đi Bình Định thăm
Ngài trong cơn thập tử nhất sinh. Nhưng công an đã chận xe tại Trảng Bom, cách
Saigon 50 cây số, giữa rừng cao su vắng vẻ, áp tải phái đoàn về lại Saigon.
Ngày 31.11.2004, Ngài xuất viện về
tịnh dưỡng tại Tu viện Nguyên Thiều, sức khỏe còn rất yếu nhưng đã thoát khỏi
cơn hiểm nghèo.
Ngày 21.2.2005, Ngài viết Thư Ngỏ
gửi đến các ông : Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư Đảng, Trần Đức Lương, Chủ
tịch Nước, Phan Văn Khải, Thủ tướng, và Nguyễn Văn An, Chủ tịch Quốc hội. Qua
Thư Ngỏ, Đức Tăng thống ngạc nhiên nhận định một điều mâu thuẫn đang xẩy ra khi
thấy Nhà nước tiếp tục đàn áp GHPGVNTN, nhưng lại đón tiếp phái đoàn Sư Ông
Nhất Hạnh về Việt Nam . Cuối thư Ngài yêu cầu“Đảng và Nhà nước minh bạch hóa
trường hợp quản chế tôi và Hòa thượng Thích Quảng Độ bằng khẩu lệnh kể từ vụ
bắt bớ tùy tiện chúng tôi ngày 9.10.2003 tại Lương Sơn”.
Ngày 20.3.2005, Ngài trực tiếp gọi
điện thoại cho Ban Trị sự Giáo hội Nhà nước tỉnh Bình Định thông báo rằng Ngài
không tiếp Sư Ông Nhất Hạnh và phái đoàn Tăng thân Làng Mai theo lời yêu cầu
của Sư Ông ngỏ ý muốn đến Tu viện Nguyên Thiều ở Bình Định đảnh lễ Ngài.
Ngày 8.8.2005 nghe tin quân khủng bố
đánh bom tại thủ đô Luân Đôn gây chết chóc thảm khốc cho nhân dân Anh, Ngài
viết thư chia sẻ gửi Nữ hoàng Elisabeth Đệ nhị. Sang ngày 15.8, Nữ hoàng đã gửi
thư cảm tạ Ngài.
Ngày 18.8.2005, Công an và Ban tôn
giáo chính phủ đến Tu viện Nguyền Thiều “làm việc” với Ngài, cấm không cho Ngài
tiếp các phái đoàn, đặc biệt không được tiếp ngài Quảng Độ. Ngài viết bức thư
gửi Hoà thượng Viện trưởng Viện Hoá Đạo căn dặn việc Phật sự : “Hòa Thượng hãy tùy hoàn cảnh, điều
kiện, mà thêm bớt, thay đổi, bổ sung, củng cố lại các thành viên trong Hội đồng
Lưỡng viện sao cho phù hợp với tôn chỉ để bảo toàn Giáo hội là được, chứ hoàn
cảnh bây giờ và nhiều năm sau này nữa cũng chưa tổ chức Đại hội được đâu. Có lẽ
hết đời mình cũng chưa Đại hội được đâu. “Nhưng chúng ta đừng lo. Chánh quyền nào cũng nói muôn năm
nhưng có chánh quyền nào muôn năm đâu ? Còn Phật giáo đâu có nói muôn năm nhưng
Phật giáo đã mấy ngàn năm rồi”.
Ngày 1.12.2005, Quốc hội Châu Âu ra
Quyết nghị yêu cầu Việt Nam “chấm
dứt mọi hình thức đàn áp các thành viên thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
nhất và chính thức công nhận quyền hiện hữu của Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thống nhất(…) đặc biệt là trả tự do cho nhị vị Hòa thượng Thích Huyền Quang và
Thích Quảng Độ, hai Hòa thượng đã được LHQ xác nhận là nạn nhân bị giam cầm
trái phép”.
Ngày 21.9.2006, ông Nguyễn Khánh
Toàn, Thứ trưởng Bộ Công an từ Hà Nội vào thăm Ngài. Ông ngỏ lời khuyên Ngài
“nay tuổi đã già nên tịnh dưỡng, không nên nhọc công lo việc Giáo hội, để cho
giới trẻ cáng đáng”. Ông Thứ trưởng Công an cũng khuyên “nếu ông Quảng Độ có ra
thăm cũng không nên bàn chuyện Giáo hội”. Ngài liền đáp : “Chí nguyện suốt đời tôi là phục vụ
dân tộc, phục vụ đạo pháp, phục vụ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cho
đến hơi thở cuối cùng. Không ai có thể ngăn cấm tôi và Hòa thượng Thích Quảng
Độ bàn bạc chuyện Phật sự của Giáo hội”.
Ngày 22.9.2006, Đức Tăng Thống lâm
bệnh, chóng mặt và khó thở. Đến ngày 25.9 thì tình hình khẩn cấp nên chư Tăng ở
Tu viện Nguyên Thiều đưa ngài vào bệnh viện Đa khoa Quy Nhơn lúc 16 giờ. Bác sĩ
cho biết ngài bị suy tim và viêm phổi. Ban chỉ đạo Viện Hóa Đạo đã cấp tốc
triệu tập buổi họp khẩn lấy quyết định thỉnh Đức Tăng thống vào Saigon chữa
trị. Ngày 29.9.2006 Ngài vào đến bệnh viện Chợ Rẫy ở Chợ Lớn. Ở hải ngoại, hàng
trăm chùa viện tổ chức lễ Cầu an cho Đức Tăng thống sớm bình phục.
Ngày 1.10.2006, Hòa thượng Thích
Quảng Độ cùng chư Tăng giáo phẩm trên 20 vị và đông đảo Phật tử đã đến bệnh
viện Chợ Rẫy ruớc Ngài về điều trị ở bệnh viện Pháp Việt, tọa lạc tại số 6
đường Nguyễn Lương Bằng, Phường Tân Phú, thành phố Saigon.
Ngày 16.10.2006, sau khi khám tổng
quát, các bác sĩ ở bệnh viện Pháp Việt đồng ý để Đức Tăng thống xuất viện về
tịnh dưỡng tại Chùa Giác Hoa ở Quận Bình Thạnh, Saigon. Một thời gian sau Ngài
trở về Tu viện Nguyên Thiểu, tỉnh Bình Định, chờ ngày 30.12.2006 trở lại Saigon
tái khám. Nhưng ngày 2.1.2007 Công an tỉnh Bình Định không cho Ngài đi.
Ngày 5.5.2007, Báo An Ninh Thế giới
của Bộ Công an số 651, cho đăng ở trang nhất bài “Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng thăm
Hòa thượng Thích Huyền Quang: Một cuộc gặp gỡ thân tình và cởi mở” nhân
ngày kỷ niệm 30.4.2007. Bài này nhắm mạ lị Cư sĩ Võ Văn Ái và Hoà thượng Thích
Quảng Độ “hoạt động chống
phá chính quyền, làm giả di chúc và soạn thảo Thông điệp Phật Đản Phật lịch
2551, với nội dung sai sự thật, kích động chống chính quyền”.Nhưng qua điện
đàm, Ngài cho Đạo hữu Võ Văn Ái, Giám đốc Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế
biết rằng : “Thầy có tiếp họ chừng nửa giờ. Xã
giao qua về, không có việc gì khác. Họ có tuyên bố Thầy muốn đi đâu cũng được
không ai ngăn cấm. Trước đây, hai lần họ mời Thầy ra làm Trú trì chùa Sóc Sơn
(ở miền Bắc). Nhưng Thầy không đi. Ra ngồi đó để ở tù như hồi ở Nghĩa Hành
trước đây hay sao ?! Thầy không đi. Các điều in trên báo là họ đặt bày để phá
mình. Ngoài đó đừng có tin. Anh Ái dặn quý Thầy và Phật tử đừng có tin”.
Ngày 29.8.2007, Thiếu tướng Trần Tư,
Cục trưởng Cục A41 (tức Cục An ninh xã hội theo dõi và kiểm soát các tổ chức
tôn giáo) từ Hà Nội vào Bình Định gặp Ngài tại Tu viện Nguyên Thiều để nói lên
ba việc : thứ nhất, phản đối việc ủy lạo và cứu trợ Dân oan khiếu kiện hôm 17.7
của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ; thứ hai, cấm Đức Tăng thống không được
tổ chức Đại hội Phật giáo tại Tu viện Nguyên Thiều; và thứ ba, ngỏ lời mời Đức
Tăng thống ra Hà Nội thăm viếng, nhân dịp gặp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và tham
dự Đại lễ Phật Đản 2008 tại Hà Nội. Ngài từ khước không ra Hà Nội.
Ngày 8.9.2007, để đối phó với tình
hình nhà cầm quyền Cộng sản đàn áp, bức bách, và vu cáo trắng trợn GHPGVNTN;
mặt khác, “một số phần tử cơ
hội trong cộng đồng Phật giáo hải ngoại tiếp tay gây phân hóa, tạo ly gián,
biến tướng chủ trương, đướng hướng sinh hoạt của GHPGVNTN Hải ngoại, âm mưu dập
tắt tiếng nói của Giáo hội trên địa bàn quốc tế”, Ngài ban hành
Giáo chỉ mang số 9 như biện pháptự vệ và kiện toàn tổ chức Giáo hội trong và ngoài
nước.
Ngày 4.2.2008, Đài Á Châu Tự do phát
thanh Lời Chúc Tết của Ngài đến Cộng đồng Người Việt hải ngoại nói chung và
Cộng đồng Phật giáo hải ngoại nói riêng. Đặc biệt, Ngài gửi lời khen ngợi chư
Tôn đức Tăng, Ni, Phật tử hải ngoại “đã tận tình hoằng dương chánh pháp nơi các
xứ sở xa xôi, đồng thời vẫn nhất tâm hậu thuẫn Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thống nhất tại quê nhà. Đặc biệt chư liệt vị đã chí thành khâm tuân và thi hành
Giáo chỉ số 9 do tôi ban hành và các Thông tư, Thông bạch của Viện Hóa Đạo nhằm
chấn chỉnh và phát huy Giáo hội trước tình thế mới, cũng như làm rạng danh hai
nghìn năm Phật giáo Việt Nam, chư liệt vị Tổ sư, các Thánh tử đạo và những
người đã hy sinh để bảo vệ dân tộc, bảo vệ lãnh thổ và bảo vệ chánh pháp”.
Lời Ngài nói đánh bạt mọi xuyên tạc,
vu khống của một số Tăng sĩ và Cư sĩ ở hải ngoại tung tin thất thiệt rằng “Giáo
chỉ số 9 là giáo chỉ giả không do Ngài ban hành”.
Ngày 18.5.2008, nhân dịp Đại lễ Phật
Đản, Cộng đồng Người Việt Quốc gia tại thành phố Houston và vùng phụ cận, tiểu
bang Texas, Hoa Kỳ, tổ chức Lễ Vinh danh Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang
và Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ. Tại cuộc lễ, một trong những lời phát
biểu đầy ý nghĩa là lời tôn vinh của ông Al Green, Dân biểu Quốc hội Hoa Kỳ.
Ông nói rằng :
“Những người thiện tâm quanh
thế giới đều buồn thương ngày Mục sư Martin Luther King bị bắt giam vào nhà
ngục Birmingham. Những người thiện tâm quanh thế giới đều buồn thương ngày Nelson
Mandela bị bắt giam nửa thế kỷ trước đây. Việc cấm cố Đức Tăng thống Thích
Huyền Quang và Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ hôm nay cũng gây buồn thương
cho những người thiện tâm quanh thế giới.
“Bởi vì Mục sư Martin
Luther King nhắc nhở chúng ta rằng, bất công ở bất cứ đâu đều đe doạ công lý
cho khắp mọi nơi. Bất công đối với Đức Tăng thống Thích Huyền Quang và Đại lão
Hoà thượng Thích Quảng Độ hôm nay là mối đe doạ ngay cho đất nước Hoa Kỳ này.
« Chúng ta phải thấy
rõ một điều, hễ nhắc tới nhân loại là chỉ còn một chủng tộc – chủng tộc
của loài người. Nên chúng ta phải cùng nhau hành động để gìn giữ nhân loại cùng
chung nòi giống ấy.
“Hoa Kỳ của chúng ta trong
thế đại siêu cường của thế giới, phải khẳng định vấn nạn lớn của nhân sinh. Vấn
nạn này không đòi hỏi chúng ta làm “sen đầm” quốc tế , mà là đem lại hoà bình
cho thế giới. Đây là lý do vì sao Ngày lễ Phật Đản trở nên vô cùng quan trọng,
vì đại lễ này nhắc chúng ta đặt trọng tâm vào sự sống của tha nhân, đem lại
hạnh phúc và an lạc cho tha nhân, giúp đỡ tha nhân có cuộc sống yên hàn trên
trái đất.
“Cử hành Đại lễ Phật Đản
hôm nay, phải là mục tiêu để cho mọi người biến mỗi ngày trong đời sống thành
một Ngày Phật Đản, ngày mà chúng ta mang lại an lạc và và hoà điệu cho tha
nhân, là điều nhân loại cần được hưởng trong một thế giới cộng sinh.
“Tôi vô cùng hân hạnh được hiện diện
hôm nay, trong cương vị Dân biểu Liên bang đơn vị 9 Texas, đồng thời đại diện
cho Quốc Hội Hoa Kỳ, trân trọng trao bằng tưởng lệ vinh danh Đức Tăng thống
Thích Huyền Quang và Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ ».
Ngày 27.5.2008 vì bị yếu
tim, dịch trong phổi nên Ngài phải vào bệnh viện Đa khoa Quy Nhơn. Tuần lễ đầu
có chiều khả quan. Nhưng sau một thời gian y sĩ phát hiện thêm bệnh gan, thận
yếu, và bị suy dinh dưỡng nên phải chuyển Ngài vào phòng cấp cứu nhiều tuần lễ.
Sau một tháng hơn nằm viện, bệnh tình Ngài không mấy thuyên giảm, nên Ngài tỏ ý
muốn về Tu viện Nguyên Thiều cho được thanh tịnh và nghe công phu sớm chiều.
Đây cũng là ước nguyện của hàng giáo phẩm Hội đồng Lưỡng Viện và Môn đồ pháp
quyến.
Về đến Tu Viện Nguyên Thiều lúc
15 giờ 30 chiều 4.7.2008 và được chư Tôn đức trong Hội Đồng Lưỡng Viện Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất do Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ và Hoà
thượng Thích Thiện Hạnh dẫn đầu rước Đức Tăng Thống vào phương trượng.
Tám giờ sáng ngày 5.7.2008 Hội Đồng
Lưỡng Viện GHPGVNTN cùng chư Tăng tại Tu viện Nguyên Thiều Khai kinh Cầu An cho
Ngài. Đến 13 giờ chiều cùng ngày Ngài xả báo thân, an thần thị tịch nơi phương
trượng của Ngài tại Tu viện Nguyên Thiều do Ngài sáng lập 50 năm trước. Ngài
trụ thế 89 năm, pháp lạp 69.
Nguyên Thái Võ Văn Ái chấp bút
Paris, 4.7.2008
Paris, 4.7.2008
|
Chín Điểm Yêu
Sách Nhà cầm quyền Hà nội
của Hòa Thượng Thích Huyền Quang
L.T.S: Dưới đây là bản rút gọn
những điều chính yếu, cùng nguyên văn 9 Yếu sách, đề ra qua bức thư
dài 8 trang đánh máy của Hòa Thượng Thích Huyền Quang gửi nhà cầm
quyền Hà Nội từ Quảng Ngãi ngày 25.6.1992. Một bản sao được gửi
từ Việt Nam đến Văn Phòng Ủy ban Bảo vệ quyền làm Người Việt Nam
có trụ sở tại Paris với lời nhờ cậy phổ biến trong dư luận quốc
tế. Sau khi ra tù một thời gian, Hòa Thượng Thích Huyền Quang bị
bắt lần thứ hai tại Saigon ngày 25.2.1982 và bị đưa về quản thúc
từ 10 năm qua ở Quảng Ngãi, một tỉnh miền Trung cách Saigon 800 cây
số.
Quê
Mẹ
Ngày 25.6.1992 vừa qua, từ thị
trấn Quảng Ngãi nơi bị lưu đày từ 10 năm qua, Hòa thượng Thích
Huyền Quang đã gửi một bức thư cùng 9 Yêu sách đến các ông Tổng Bí
thư Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng
Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch Tối cao Pháp
viện và Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc.
Tám trang thư vạch lại quá trình 41 năm Nhà nước CHXHCNVN kỳ thị và đàn áp Phật giáo: Khởi đầu với sự vụ Nhà nước giải tán Hội Phật giáo Cứu quốc tại liên khu 5 năm 1951 trong thời gian kháng chiến giành độc lập. Bắt buộc mọi cơ sở và quần chúng Phật giáo phải sáp nhập vào Mặt trận Liên Việt, tiền thân của Mặt trận Tổ quốc ngày nay. Do phản đối việc làm có tính cách gây chia rẽ và phá hoại tình đoàn kết dân tộc ấy, Hòa thượng Thích Huyền Quang đã bị bắt giam từ năm 1952 không lý do, cũng không hề được xét xử. Nhờ Hiệp định Genève được ký kết năm 1954, , Hòa thượng mới được phóng thích. Từ biến cố 1975 trở về sau, bức thư cho biết: “Chính quyền thành phố các tỉnh đã bắt một số Giáo phẩm cao cấp, trung cấp, v.v... của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) như tôi và chư Tăng Thích Thiện Minh, Thích Thuyền Ấn, Thích Thông Bửu, Thích Trí Giác, v.v... giam tại thành phố và các nơi khác. Với mục đích áp đảo tinh thần chư vị lãnh đạo.” “Cuối năm 1981, một tổ chức mang tên “Giáo hội Phật giáo Việt Nam” được Nhà nước dựng lên tại Hà Nội. Chính quyền đã dùng Giáo hội Nhà nước chụp lên đầu Giáo hội chúng tôi. Tuy Giáo hội Nhà nước này được thông qua một Đại hội, nhưng đại hội đó đã do Nhà nước chỉ đạo, sắp đặt tất cả, chứ không phải một đại hội do chư vị Cao tăng, Tăng Ni, Phật tử bầu lên theo truyền thống Phật giáo Việt Nam. Cho nên chúng tôi khẳng định Giáo hội Nhà nước là một Giáo hội chính trị, thời đại, công cụ cho chế độ hiện tại và đã bỏ rơi quần chúng Phật tử. Một Giáo hội như vậy không đủ tư cách để hưởng sự truyền thừa chính thống của Phật giáo Việt Nam. Giáo hội ấy chỉ là hậu thân của (các tổ chức trước kia từng được gọi là) “Phật giáo Liên lạc” và “Phật giáo Yêu nước”. Năm 1976, nhà cầm quyền Hà Nội tiến hành việc thống nhất đất nước. GHPGVNTN cũng tỏ nguyện vọng hiệp nhất khối Phật giáo hai miền Nam Bắc sau thời loạn ly, tranh chấp, để cùng hợp lực phục hồi đạo đức và tái thiết quốc gia. Do đó, đã cử Hòa thượng Thích Đôn Hậu thay mặt Giáo hội đến gặp ông Nguyễn Văn Hiếu, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, xin phép cho Giáo hội được vận động tổ chức cuộc thống nhất Phật giáo. Nhưng ông Nguyễn Văn Hiếu đã từ chối với lý do: “Thống nhất Phật giáo thì tốt, nhưng thống nhất Phật giáo cách mạng, chứ thống nhất làm gì với Phật giáo phản động!” “Phật giáo phản động” nói đây, ông Hiếu ám chỉ “Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất”. Cho nên, một thời gian sau cuộc gặp gỡ, chính quyền cộng sản mở đầu hàng loạt cuộc bắt bớ Tăng Ni, Phật tử, đập phá tượng Phật, dẹp bỏ chùa chiền, chiếm dụng các cơ sở đại học, giáo dục, văn hóa, xã hội, từ thiện của Giáo hội Phật giáo trên toàn quốc. Bức thư thông báo: “Sau khi nước nhà thống nhất (1976) các cấp chính quyền đã tịch thu chùa lớn, chùa nhỏ, tịch thu ruộng chùa dù có một sào, không cho chùa nuôi Tăng chúng kế thừa, không trường giới, trường giảng, trường học, v.v...” Riêng bản thân Hòa thượng thì: “Từ ngày có chế độ Cộng sản trên đất nước Việt nam, cũng từ ngày đó, tôi mất hết tự do cho đến ngày hôm nay”. Trước hiện trạng phi pháp ấy, Hòa thượng Thích Huyền Quang phải tự khẳng định tính cách chính pháp truyền thống, và pháp lý của GHPGVNTN như sau: “Pháp lý của Giáo hội chúng tôi là lịch sử 2000 năm truyền giáo theo bước tiến mở nước, dựng nước của dân tộc Việt Nam. Địa vị của Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất là 80% dân số Phật tử”. Kết thúc bức thư, Hòa thượng Thích Huyền Quang, Quyền Viện trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN đưa ra 9 Yếu sách đòi hỏi nhà cầm quyền Hà Nội: 1. “Trả lại cho Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất quyền sinh hoạt bình thường trong pháp luật nhà nước, như trước năm 1975. 2. Nhà nước phải chịu trách nhiệm và trả lời: a. Về cái chết của Hòa thượng Thích Thiện Minh, Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo tại Nhà công an thành phố Hồ Chí Minh năm 1978; b. Về vụ 12 Tăng Ni Phật giáo tự thiêu ngày 2.11.1975 tại Thiền Viện Dược Sư ở Cần Thơ; c. Về các chùa chiền và tượng Phật bị dẹp bỏ để xây cơ sở khác lên. 3. Trả tự do cho tất cả Tăng Ni, Phật tử, các nhà văn, nhà báo, các nhà chính trị, v.v... đã bị giam giữ lâu ngày không xét xử, hoặc xét xử bất công. Tôn trọng tự do tôn giáo và quyền làm người của những ai đã bị tước đoạt, trong đó có tôi và chư vị Thích Quảng Độ, Thích Đức Nhuận, Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát) v.v... và các Tu sĩ các tôn giáo khác. 4. Trả lại tất cả tự viện, các cơ sở văn hóa, từ thiện v.v... của Giáo hội chúng tôi, từ trung ương đến địa phương, đã bị Nhà nước và Giáo hội do Nhà nước dựng lên chiếm dụng phi pháp hơn 11 năm qua. Kể cả các tự viện ở Miền Bắc bị Nhà nước chiếm dụng sau 1945. 5. Phục hồi quyền sinh hoạt của Giáo hội chúng tôi với các chi bộ Phật giáo Hải ngoại như trước năm 1975. 6. Yêu cầu Nhà nước đưa nội vụ tôi từ năm 1945 đến 1992 ra xét xử trước pháp luật. Không thể nhốt tôi mãi mà không xét xử. 7. Minh bạch hóa việc giam giữ các tu sĩ Phật giáo, trong đó có tôi, để trả lại hơn 20.000 lá thư của các tổ chức Nhân quyền, Dân chủ từ Âu, Mỹ, Úc, Á, gửi đến Hà Nội trong thời gian qua. 8. Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất sẵn sàng góp sức mình trong việc xây dựng đất nước theo truyền thống dân tộc. Nhưng không thể thực hiện việc này dưới sự điều khiển của một chế độ còn xem tôn giáo là kẻ thù, và thường xuyên nhúng tay can thiệp, kiểm soát nội bộ tôn giáo. 9. Tôi nguyện sẽ hiến thân này cho Đạo pháp và Dân tộc, khi thấy rằng sự khổ nhục đã đến lúc không cho phép tôi chịu đựng hơn nữa.
Quảng
Ngãi, ngày 25.6.1992
Hòa thượng Thích Huyền Quang Quyền Viện trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN |
__._,_.___
No comments:
Post a Comment