TT. THÍCH TÂM CHÂU NÓI GÌ VỀ TRÍ QUANG VÀ PHE ẤN QUANG?
TT. Thích Trí Quang
Ở miền Nam, ngoài Dương Văn Minh, còn có
Thích Trí Quang, và phe Phật Giáo Ấn Quang, hay ”PHẬT GIÁO THỐNG NHẤT” là
một ổ cán bộ CS nằm vùng trước mũi của chính quyền. Vì giới quân nhân cầm
quyền tham nhũng, nên đã dung dưỡng bọn mượn danh đạo, tạo danh đời này,
khiến cho miền Nam bị rữa mục, rơi vào tay CS quá dễ dàng. Theo tôi biết,
hiện nay ở hải ngoại, nhóm sư tăng đệ tử của Trí Quang, đa số là người miền
Trung, trà trộn trong cộng đồng người VN tị nạn rất đông, cấu kết rất chặt
chẽ, tạo thành một lực lượng, nếu mai sau thời cơ đến sẽ xử dụng. Tuy mang
danh nghĩa tu hành, nhưng nhóm tăng sĩ Ấn Quang ở khắp nơi hải ngoại chỉ
chuyên tâm nô nức ganh đua xây chùa bằng tiền cúng dường, vay mượn không
lãi dài hạn của bá tánh. Có nơi con số lên tới hàng chục triệu, và thường
xảy ra những cuộc tranh chấp, chửi bới nhau chí chóe...
Đây là một hiện tượng đáng để các giới đồng
bào khắp nơi hải ngoại phải đặc biệt quan tâm, cảnh giác đối với các tu sĩ
đó trước khi quá muộn, như trường hợp Trí Quang. Bởi chính đức Phật đã dạy
trong tạng luật ”MAHÃVIBHANGA”, đoạn Một: Có 5 hạng cướp thì hạng Tỳ Khưu
không lo tu hành chân chính, chỉ ăn ngon mặc đẹp, chuyên lo xây chùa chiền,
tu viện cho nguy nga đồ sộ bằng tiền của bá tánh là một hạng cướp nguy hiểm
nhất. Vì tên tướng cướp thường còn bị pháp luật xét xử. Trong khi đó tên
cướp mặc áo cà sa vẫn được tự do, đi đến đâu vẫn được bá tánh cúng dường
vật thực ngon lành, tinh khiết, y phục, chỗ ở tốt đẹp, và xưng hô cực kỳ
cung kính... (theo
TÌM HIỂU PHẬT GIÁO, chương 14, Phật giáo với hàng tăng lữ của soạn giả Maha
Thong Kham Medhivongs, Phật giáo nguyên thủy). Như trên tôi đã nói: TT Trí Quang là một cán bộ CSBV nằm
vùng, đã chụp được thời cơ thuận lợi nhất là vụ treo cờ Phật Giáo, để nổi
lên đánh phá miền Nam .
Thực ra chẳng phải đến bây giờ dân chúng miền Nam mới biết tông tích của TT
Thích Trí Quang, một cán bộ CSBV đội lốt tu hành, đã phát động cuộc đấu
tranh năm 1963, lật đổ chế độ độc tài gia đình trị nhà Ngô. Tông tích và
đường lối mượn danh nghĩa Phật Giáo đấu tranh, chống độc tài gia đình trị
họ Ngô, mở đường cho sự rối loạn và sụp đổ của miền Nam vào tay CSBV năm
1975 của TT Trí Quang đã được một số người biết từ lâu. Nhưng hoàn cảnh chánh
trị ở VN, từ năm 1963 cho đến 1975, đã không cho phép một ai có đủ can đảm
để nói lên sự bí mật này. Nguyên do chẳng phải bản tánh cầu an, khiếp nhược
của con người, mà còn bởi nhiều yếu tố khác nữa. Những người am tường thời
cuộc đều nhận thấy rằng, vào khoảng thời gian ấy, trong không khí chánh trị
hỗn độn như thế, giới Phật giáo đấu tranh miền Trung đã trở nên một lực lượng
chánh trị vô địch, các tu sĩ miền Trung đã trở thành những kiêu tăng, dám
giết người nhân danh ”đạo pháp”, chẳng khác gì các kiêu binh kiêu tướng, và
tệ nạn tham nhũng, hối lộ bành trướng khắp các giai tầng chế độ, thì việc
phanh phui bí mật cuộc đời của TT Trí Quang ra trước công luận lúc bấy giờ
chỉ là một việc làm vô hiệu quả, đồng thời còn là một hành động tự sát một
cách ngu đần. Hơn thế nữa, bạn đồng minh Mỹ đến VN với danh nghĩa giúp
chúng ta “ngăn làn sóng đỏ”, nhưng tiếc thay, họ lại chỉ là một anh chàng
khổng lồ mù lòa, với võ khí là cơ quan CIA trong tay nhưng chẳng khác nào
khẩu súng nước trẻ con chơi. Những người khôn ngoan chẳng ai dám tin vào
họ!
Bạn đọc hãy tưởng tượng, ngay cả đến Hòa
Thượng Thích Tâm Châu, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, một cao tăng đã có một địa
vị vững chắc trong khối Phật Giáo VN và cả trên trường quốc tế, thế mà
trong thời gian còn ở VN vẫn phải làm thinh “mũ ni che tai”, tránh voi
không xấu mặt nào. Sau năm 1975, khi ra hải ngoại sống cuộc đời lưu vong,
Hòa Thượng Thích Tâm Châu vẫn tiếp tục “thủ khẩu như bình”, mãi cho đến năm
1994, Hòa Thượng mới công bố quyển “BẠCH THƯ”, trong đó có kể lại đôi điều
liên quan đến TT Thích Trí Quang và phái Phật Giáo đấu tranh miền Trung,
sau hiệp thành tổ chức gọi là: “GIÁO HỘI PHẬT GIÁO V.N. THỐNG NHẤT”, trụ sở
đóng tại chùa Ấn Quang, nên còn gọi là phe “PHẬT GIÁO ẤN QUANG”. Phe nhóm
này chủ trương đấu tranh bạo động, gây rối loạn không ngừng ở khắp miền Nam
, theo sách lược của CSBV. Đối với HT Tâm Châu, mặc dù là đồng đạo, nhưng
phe Phật Giáo Ấn Quang vẫn dùng thủ đoạn khủng bố để uy hiếp tinh thần. Nơi
trang 24, của Bạch Thư, HT Thích Tâm Châu kể nguyên văn như sau:
”Tôi về tới VN Quốc Tự (VNQT), bước chân vào cửa văn phòng viện trưởng Viện Hóa Đạo (VHĐ) của tôi thì có một biểu ngữ nền vàng chữ đỏ ghi: MUỐN QUẦN CHÚNG TUÂN THEO KỶ LUẬT THÌ PHẢI THEO QUẦN
CHÚNG. Tôi vào tới bàn giấy của tôi thì có một
đĩa máu, một con dao và một huyết thư: ”YÊU
CẦU CÁC THƯỢNG TỌA TRONG VIỆN HÓA ĐẠO, KHÔNG ĐƯỢC THEO THƯỢNG TỌA TÂM CHÂU”. Tôi định lên chánh điện VNQT lễ Phật, tại đây có mấy
vị tăng thanh niên không cho tôi vào chánh điện VNQT và hăm dọa, ai muốn vào
chùa hãy bước qua xác chết của họ.
Tôi vô cùng chán nản, không biết cách nào vãn hồi trật tự được.
Tôi trở về chùa Từ Quang. Về chùa Từ Quang cũng có một đĩa máu, một con dao
và một huyết thư CẤM TÔI KHÔNG ĐƯỢC HOẠT ĐỘNG NỮA. Và người trong chùa cho biết là họ hăm dọa sẽ đốt xe, ám sát.
Và, chính các vị tăng thanh niên đang tụ tập tại Niệm Phật Đường Quảng Đức (Bàn Cờ) định sang chùa Từ Quang giết tôi. May có sư cô Vân biết
được, cấp báo cho tôi biết. Tôi trốn thoát.”
Trang 25, HT Tâm Châu viết tiếp: ”Nhóm Lập Trường ở Huế ra đời... TT Trí Quang cùng nhóm tranh đấu
tại Huế, kêu gọi Phật Tử đem bàn thờ ra đường, để ngăn cản bước tiến của
quân đội chính phủ, cho các cán bộ CS nằm vùng trà trộn tẩu thoát... Tại Đà
Nẵng cũng như một số nơi khác, ngoài việc đem Phật ra đường, còn ghìm súng
nấp sau tượng Phật bắn ra, khi quân đội tiến vào kiểm soát chùa.
Đem Phật ra đường rồi, TT Trí Quang vào tòa Hành Chánh tỉnh
Thừa Thiên tuyệt thực. Sau chính phủ đưa TT Trí Quang vào Sài Gòn, ở nhà
bác sĩ Nguyễn Duy Tài (* Đến đây, tôi xin mở dấu
ngoặc để nói thêm về dưỡng đường của bác sĩ Nguyễn Duy Tài, để bạn đọc hiểu
rõ hơn. Tôi quen với vợ chồng bác sĩ Tài từ năm 1965, khi tôi với Hồ Ngọc
Cứ và Nguyễn Duy Tài cùng ra tranh cử Hội Đồng Đô Thành. Tôi biết cả nguyên
nhân tiền bạc, do đâu mà vợ chồng BS tài đã có để lập nên nhà bảo sanh này.
Nhưng đó là chuyện riêng của bà tài, đã xả thân để gầy vốn cho chồng làm
ăn, nên tôi không đề cập vào đây làm chi). Tôi chỉ
đề cập đến BS Tài. Vì hành động của ông ta liên quan đến chánh trị và gắn
bó với Trí Quang. Đó là một nhà bảo sanh tư, nằm trên đường Duy Tân, nổi
tiếng chuyên môn các dịch vụ phá thai bất hợp pháp, với giá cắt cổ. Những
sản phụ nào gần chết mà không đủ tiền cũng đừng hòng được nhận bệnh. Một
hôm, thảm cảnh thương tâm sau đây đã xảy ra: một trung sĩ ở trong xóm nhà
thờ Tân Định, sau đường Hiền Vương, góc ngã ba Duy Tân, có vợ sanh khó, mất
máu quá nhiều đến ngất xỉu mê man rồi. Người chồng đem vợ đến dưỡng đường
Duy Tân của BS Tài gần đó xin cứu cấp. Bác Sĩ Tài đòi phải đóng tiền trước
đủ 18.000 đồng mới cho nhập viện. Viên hạ sĩ quan nghèo, không đủ tiền, lạy
lục xin cho đóng trước vài ngàn, còn lại sẽ trả sau.
Bác sĩ Tài trả lời lạnh lùng: ”Không có tiền thì đem đi nhà
thương thí, chớ đem đến đây làm gì?!” Và nhất định không nhận bệnh. Sản phụ
đó chết. Người chồng đau đớn quá, mỗi chiều chiều, dắt bầy con thơ nheo
nhóc đến trước dưỡng đường BS Tài ngồi khóc kể, réo đích danh Nguyễn Duy Tài
chửi bới thậm tệ. Chuyện này đã kéo dài cả tháng trời. Những ai có dịp qua
lại đường Duy Tân, ngang dưỡng đường Nguyễn Duy Tài thời đó đều không khỏi
chạnh lòng khi chứng kiến cảnh thương tâm đó.
Vậy, chuyện Nguyễn Duy Tài chứa chấp, nuôi
dưỡng, săn sóc Thích Trí Quang trong bảo sanh viện Duy Tân chẳng qua chỉ là
một hành vi ”mậu dịch tình cảm” giữa bọn người quyền thế, giàu có, bất
lương với nhau. Quả nhiên, ít lâu sau, Nguyễn Duy Tài đã được khối Phật
Giáo Ấn Quang cài vào một danh sách tranh cử Thượng Viện, rồi trở nên nghĩ
sĩ, đại diện cho phe nhóm Phật Giáo Ấn Quang. Sau ngày 30. 4. 75, ra hải
ngoại, tôi không lấy gì làm lạ khi thấy vợ chồng BS Nguyễn Duy Tài, ở Paris,
liên hệ chặt chẽ với TT Thích Minh Tâm, (thuộc
nhóm ”Phật Giáo Thống Nhất” miền Trung!).
TT vẫn duy trì việc tuyệt thực (có uống
nước thuốc dưỡng sức) cho đến khi chánh phủ quân nhân y lời hứa
hồi tháng 4.66, bầu cử Quốc Hội Lập Hiến vào ngày 3.9.66... Tại miền Trung,
TT Trí Quang cho tuyên truyền rằng: ”Mỹ mua đứt Tâm Châu với 3 triệu Mỹ Kim" và cho tôi là cậu của tướng Nguyễn Cao kỳ, đem quân đội ra tàn
sát Phật Tử miền Trung... tại Sài Gòn TT Trí Quang và nhóm tranh đấu vu
khống cho tôi là người Mỹ cho tôi 1 triệu Mỹ Kim và trả lương cho tôi mỗi tháng
là 20 ngàn Mỹ Kim. Thực ra, tôi chưa được một đô la của Mỹ, chứ nói chi đến
vạn đến triệu...”
Về chuyện Phật giáo Ấn Quang đem người và khí
giới đến đánh chiếm và đốt phá VNQT, HT Thích Tâm Châu kể nguyên văn như
sau:
”Đùng một cái, một hôm vào khoảng 7 giờ tối, một số tăng tại
chùa Ấn Quang, được sự hộ trợ của các dân biểu thân Ấn Quang có súng như
Kiều Mộng Thu v.v... đột nhập vào VNQT bắt TT Viện trưởng VHĐ Thích Thiện
Tường cùng với rất đông chư tăng, đem về nhốt tại chùa Ấn Quang. Ngày hôm
sau Nha Tuyên Úy Phật Giáo can thiệp, mời các vị Ấn Quang ra khỏi VNQT...
Vẫn chưa yên. Lại một hôm khác, vào chập tối, phe Ấn Quang lại đem người,
đem khí giới, tái chiếm VNQT một lần nữa. Lần này họ bắt hết tăng chúng,
lấy hết đồ đạc, nhiều máy may của VNQT, và đốt cháy một dãy nhà phía tay
trái Quốc Tự...” (trang 28)
Về hành động của phe Ấn Quang đánh phá, đốt
chùa, bắt nhốt tăng chúng, HT Tâm Châu viết:
”Sự việc rõ ràng như thanh thiên bạch nhật, mà nhóm tranh đấu
của Ấn Quang, được sự hộ trợ ngầm của CS nằm vùng, lải nhải vu khống cho
VNQT chia rẽ giáo hội, Thích Tâm Châu phá hoại và lũng đoạn GHPGVNTH. Thực
như câu phương ngôn của VN thường nói: ”Vừa đánh trống vừa ăn cướp, vừa ăn cướp vừa la làng“. Cậy đông lấy thịt đè người, mặc sức vu khống, thao túng không
coi nhân quả ra chi cả!
Cho đến nỗi những vị tăng không biết chút gì về việc tranh đấu,
việc xây dựng giáo hội, cũng như các vị tăng ni, Phật tử ở xa, hay sau này,
cũng a dua, hùa theo sự tuyên truyền nhồi sọ của nhóm tranh đấu Ấn Quang và
CS nằm vùng trong suốt hơn 30 năm nay... Về vấn đề này, chính HT Thích Huyền
Quang cũng thường nhắc đi nhắc lại: ”CS từng tuyên bố: Phật Giáo Ấn Quang hai lần có công với Cách Mạng“... Khi quân CS từ rừng về Sài Gòn đã có gần 500 tăng ni của
phe tranh đấu Ấn Quang ra chào đón...” (trang
29).
...”Ngày 19.5.75, phe tranh đấu Ấn Quang đã tổ chức sinh nhật Hồ Chí Minh tại chùa Ấn
Quang.” (trang 30).
Nói về tinh thần đấu tranh của TT Trí Quang,
HT Tâm Châu viết nơi trang 22: ”Trong lúc xáo trộn, TT Trí Quang kéo thầy Quảng Độ (biết
tiếng Anh), sư Bửu Phương (biết tiếng Miên) chạy xuống Tân Châu và đang định chạy sang Kamphuchia,
thì Sài Gòn trở lại yên ổn, các vị lại trở về.”...
Nhận xét về hành vi trốn chạy của TT Trí
Quang, HT Tâm Châu viết nơi trang 34, đoạn 3, nguyên văn như sau:
”Việc TT Trí Quang trốn chạy xuống Tân Châu, định sang
Kampuchia, chính tôi tới nhà Phật tử mà thượng tọa cư ngụ tại đường Hồng
Thập Tự hỏi thăm, họ nói cho tôi biết như vậy. Và, sau TT cùng hai vị tùy
tùng trở về Sài Gòn thì ai cũng biết. Để xác tín việc này, ĐĐ Thích Quảng
Thành cũng có nói trong lá thư của Đại Đức gửi cho TT Trí Quang ngày 31.
12. 73 như sau: ”Năm 1964, khi Thiên Chúa Giáo xuống đường
dưới thời chánh phủ Nguyễn Khánh, TT đã trút bỏ trách nhiệm, cạo bỏ râu
mày, cải trang trốn sang Cao Miên. Nửa đường, nghe tình hình biến chuyển,
TT mới trở về. Trong những cuộc đấu tranh, cứ đến khi nào bí lối, nguy
hiểm, TT đều dùng hình thức tuyệt thực, để giao trách nhiệm và công việc
cho các thượng tọa khác... Gần cuối lá thơ, ĐĐ
Thích Quảng Thành với tính tình trung trực đã viết: ”Đến nỗi hiện giờ anh em chúng con so sánh Thượng Tọa (Thích
Trí Quang) với nhân vật “NHẠC BẤT QUẦN“, trong tiểu thuyết nổi danh của Kim
Dung. Nhạc Bất Quần là chưởng môn của một võ phái nổi tiếng và được giới
giang hồ xưng tụng là “Quân Tử Kiếm“, vì lối đánh và đường kiếm của ông rất
quân tử. Tuy nhiên mọi người đều lầm. Sau một thời gian mấy mươi năm, ông
đã lộ chân tướng của ông là một “ngụy quân tử“, với những mưu mô và thủ
đoạn cực ác và cực nham hiểm”... (trang
35).
NGUỒN GỐC GIA ĐÌNH CỦA TRÍ QUANG
Nhân Bạch Thư này, tôi xin giới thiệu thêm về
lai lịch, nguồn gốc của Trí Quang, một tên CS nằm vùng hạng gộc, đã tạo nên
bao nhiêu biến cố bi thương cho đất nước suốt từ 1963 đến 1975.
TT Trí Quang sanh năm 1922, năm nay đã 75
tuổi, tại làng Diêm Điền (còn
gọi là Nại Hiên hay Kẻ Nại), thị xã Đồng Hới,
thuộc tỉnh Quảng Bình. Làng Diêm Điền vốn là một làng nhỏ và nghèo khổ nổi
tiếng ở miền Trung. Hầu hết dân làng đều làm nghề nông, thợ mộc, hay làm
thuê làm mướn, để kiếm sống qua ngày. Vì phong thổ, dân làng Diêm Điền có
tật nói ngọng, như dân làng Thổ Ngọa, nên đi đến đâu mở miệng ra cũng khó
lẫn. Vì là nơi nghèo khổ truyền kiếp, nên dân làng Diêm Điền có tính bảo
thủ, rất cực đoan, và hết sức quá khích. Trong quá khứ, khi phong trào Văn
Thân nổi lên, năm 1885, dân làng Diêm Điền
và làng Đồng Đình, cũng thuộc tỉnh Quảng Bình đã kéo nhau đến đốt nhà thờ
Sáo Bùn, nằm về phía Nam Đồng Hới, của Thiên Chúa Giáo, tạo nên một trận
hỏa hoạn khủng khiếp đã thiêu sống mấy trăm giáo dân trong đó. Sau trận đốt
phá, giết chóc tàn bạo này của dân làng Diêm Điền, số giáo dân còn sống
sót, đã phải chạy lên phía Bắc Đồng Hới lập nên một giáo xứ mới, gọi là Tam
Tòa.
Khi phong trào Việt Minh nổi lên, làng Diêm
Điền đã dễ dàng trở thành “CÁI NÔI” của Cộng Sản, và dân làng này đều trở
thành những tay Cộng Sản rất quá khích và khát máu. Đến năm 1947, khi quân
Pháp đã tái chiếm Đồng Hới, vãn hồi an ninh, trật tự, và thiết lập đồn bót
canh gác khắp tỉnh Quảng Bình, nhưng từ khoảng thời gian 1947 đến 1954, vẫn
không một ai dám bén mảng đến làng Diêm Điền. Vì kẻ nào đã lạc bước đến
làng đó đều kể như bị thủ tiêu luôn. Trong hoàn cảnh bần cùng ấy của làng
Diêm Điền, TT Trí Quang đã xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo khổ
và là người anh cả của 3 người em trai. Thuở nhỏ, TT Trí Quang đã được cha
mẹ đặt tên cho là Phạm Văn Bồng. Ba
người em của ông cũng đã được cha mẹ đặt tên cho. Nhưng vì gia cảnh quá túng quẫn, cha mẹ không nuôi nổi các con,
nên người con trai lớn tên Phạm Văn Bồng và người em kế đã phải sớm nương
thân cửa Phật để kiếm miếng ăn. Hai anh em lớn nhà họ Phạm đã xuất
gia, qui y với Hòa Thượng Phổ Minh, trụ trì ở Đồng Đình, cũng thuộc thị
trấn Đồng Hới. Bởi nhân duyên ấy, nên về sau bốn anh em nhà họ Phạm đã được
HòaThượng Phổ Minh dùng bốn chữ: Quang, Minh,
Chính, Đại, để cải danh cho. Vì thế Phạm Văn Bồng đã cải danh thành
Phạm Quang, sau trở thành Thích Trí Quang. Còn ba người em tên là: Phạm
Minh, Phạm Chánh, và Phạm Đại.
Nhờ nương thân nơi cửa Phật, nên hai anh em Phạm Quang và Phạm Minh đã được
học hành chút đỉnh, khoảng lớp Ba tiểu học. Còn hai em là Phạm Chánh và
Phạm Đại đều chịu cảnh hất học.
VỢ PHẠM CHÁNH LÀM NỘI ỨNG ĐÁNH ĐỒN
Đến năm 1945, khi phong trào Việt Minh nổi
lên trên toàn quốc, Phạm Minh đã sớm rời bỏ lớp áo tu hành, tham gia kháng
chiến. Nhờ có chút đỉnh chữ nghĩa, nên Phạm Minh đã được phục vụ trong Ủy
Ban Hành Chánh Kháng Chiến Xã, tại địa phương. Còn hai người em, tên Phạm
Chánh và Phạm Đại thì xung vào Bộ Đội. Chẳng bao lâu sau, Phạm Chánh được
kháng chiến quân phong làm Tiểu Đội Trưởng Dân Quân Du Kích. Nhưng đến ngày
4. 6. 47, Phạm Chánh đã bị lính Pháp phục kích bắn chết tại Đức Phổ, thuộc
phía Tây thành phố Đồng Hới. Lúc bấy giờ Phạm Chánh mới 21 tuổi. Còn người
em út, tên Phạm Đại làm điều dưỡng viên trong Bộ Đội CSBV vẫn còn sống cho
đến năm 1954, khi chia cắt đất nước.
Sau khi Phạm Chánh đã bị Tây bắn chết, người
vợ của Phạm Chánh cũng là một kháng chiến quân, đã từ chiến khu quay trở về
làng Diêm Điền, xin phép được hồi cư, với lý do được gần gũi phụng dưỡng
cha mẹ chồng. Điều nên biết là vợ của Phạm Chánh lúc bấy giờ còn rất trẻ,
và là một thiếu phụ nhan sắc mặn mòi. Vợ Phạm Chánh cầm đơn xin giấy phép
hồi cư, lên Đồng Hới, gặp thiếu úy Huỳnh Công Tịnh. Lúc bấy giờ TU Huỳnh
Công Tịnh đang giữ nhiệm vụ trưởng Phòng Nhì của Trung Đoàn Nguyễn Huệ, bộ
chỉ huy đóng ở Đồng Hới, đã nhận đơn và bắt cô ta phải làm tờ cam kết không
hoạt động cho Việt Minh nữa. Vợ Phạm Chánh tuân thủ, cam kết đủ mọi điều.
Nhưng TU Huỳnh Công Tịnh vẫn còn nghi ngờ, nên ngầm ra lịnh cho thượng sĩ
Phạm Phòng phải theo dõi sát hành tung của đương sự. Đồng thời TU Huỳnh Công
Tịnh cũng ra lịnh cho trưởng đồn Diêm Điền biết sự hồi cư rất khả nghi của
vợ Phạm Chánh, để đề phòng chu đáo.
Quả nhiên, chỉ vài tuần lễ sau khi mới hồi
cư, vợ của Phạm Chánh đã tìm cách lân la đến đồn Diêm Điền, làm quen với
các binh sĩ trong đồn. Nhiều khi cô nàng còn đùa cợt lả lơi, ra chiều khêu
gợi tình tứ với anh em binh sĩ. Không bao lâu sau, cô nàng tiến gần đến mục
tiêu hơn. Vợ Phạm Chánh đem thân xác trẻ đẹp, còn hấp dẫn của mình ra để
thực hiện Mỹ Nhân Kế, suồng sã bắt nhân tình với viên trưởng đồn. Trong
những lần gần gũi thân mật, viên trưởng đồn nhận thấy cô nàng đã để lộ
nhiều hành vi khả nghi như hay hỏi han về tình trạng binh sĩ trú đóng trong
đồn, chú ý theo dõi các cuộc hành quân, và nhất là cô nàng đặc biệt quan
sát các vị trí phòng ngự chung quanh đồn, các công sự chiến đấu trong đồn
v.v... Vì thế viên trưởng đồn đã ngầm báo
cáo cho TU Huỳnh Công Tịnh biết, để phác họa sẵn một chương trình “tương kế
tựu kế”.
Về mặt địa thế, đồn Diêm Điền nằm về phía
Tây, cách thành phố Đồng Hới khoảng một cây số, và là một trong những đồn
vòng đai bảo vệ thành phố. Khi đã nắm vững được tin tình báo, quân Cộng Sản
Việt Minh sẽ kéo tới tấn công đồn Diêm Điền, lập tức trung đoàn Nguyễn Huệ
liền âm thầm mở cuộc bủa vây, bố trí các địa điểm phục kích chung quanh
đồn, đồng thời bố trí các loại súng phóng tạc đạn, súng cối, và các loại trọng
pháo đều nhắm vào đồn. Tối hôm đó, như thường lệ, vợ của Phạm Chánh lại vào
đồn ngủ với viên trưởng đồn. Khoảng 2 giờ sáng, khi đặc công đã thi hành
xong kế hoạch cắt hàng rào kẽm gai, gỡ xong một số mìn chung quanh đồn, vợ
Phạm Chánh liền dùng lửa làm ám hiệu, để cho đặc công ở ngoài bò vào trong
đồn.
Khi biết chắc đặc công CS đã bò vào sát đồn,
viên trưởng đồn mới vùng dậy phóng ám hiệu cho các đơn vị phục kích đồng
loạt khai hỏa phản công. Đến lúc bấy giờ, vợ
của Phạm Chánh mới biết được kế hoạch của mình đã bại lộ, liền nhảy vào ôm
ghì lấy viên đội trưởng. Giữa tiếng súng nổ ròn tứ phía như pháo ran, và
tiếng súng cối nổ ì ầm chung quanh đồn, lúc bấy giờ hai người hãy còn trần
truồng như nhọng, ôm nhau vật lộn xà ngầu. Cuối cùng viên trưởng đồn đã vớ
được khẩu súng lục giấu sẵn dưới giường, bắn chết vợ của Phạm Chánh.
Sáng hôm sau, dư luận cả thành phố Đồng Hới
đều xôn xao bàn tán về vụ quân CS Việt Minh đã tấn công hụt đồn Diêm Điền.
Người ta cũng thì thào bàn tán không ngớt về chuyện vợ của Phạm Chánh, đã
dùng Mỹ Nhân Kế, làm nội gián trong vụ tấn công đồn Diêm Điền, nhưng mưu sự
bất thành, và người góa phụ, em dâu của TT
Trí Quang, đã bị bắn chết tại trận trong lúc thân xác còn lõa lồ. Vài ngày
sau, bà mẹ của Thích Trí Quang đã bị cơ quan an ninh địa phương bắt giam
mấy tuần lễ liền, để tra vấn về vụ người con dâu làm nội ứng trong vụ đánh đồn
Diêm Điền. Nói về Phạm Minh, người em kế của Trí Quang, đã đi theo Việt
Minh từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp.
Theo ký giả Robert Shaplen, đã viết trong
quyển “The Lost Revolution” (Nhà
x.b. Harper and Row, 1965), có đoạn kể rằng:
Khoảng tháng 5, 1964, sau khi nhà Ngô sụp đổ, người em trai kế của Trí
Quang, tên Phạm Minh, vốn là một ủy viên của Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Quảng Bình
đã giả trang làm một tăng sĩ Phật Giáo, đội tên “Thích Diệu Minh” đã cùng
với một cán bộ của MTGPMN lén vào chùa Từ Đàm thăm Trí Quang...
TRÍ QUANG BỊ BẮT
Để giúp đồng bào nắm vững được các hoạt động
chánh trị thiên Cộng liên tục của Trí Quang, khởi từ thập niên 30 cho đến
ngày miền Nam rơi vào tay CSBV, tôi thiết tưởng cần phải mời bạn đọc theo
tôi lùi về dĩ vãng, từ khi Trí Quang còn là một tu sĩ trẻ tuổi. Tuy khởi
đầu, cậu bé Phạm Quang nghèo khổ đã được HT Phổ Minh cho nương nhờ cửa
Phật, để có chỗ ăn học. Ở Đồng Hới, thuở ấy ai cũng biết HT Phổ Minh là một
vị cao tăng, đức độ. Ngài đã có gia đình rồi mới đi tu. Nhưng ngài chỉ
thông thạo Hán Văn, và biết chút đỉnh chữ Quốc Ngữ, chớ không am tường Tây
học. Dù vậy, đến năm 1945, HT Phổ Minh lại không theo CSVM. Ngài đã ở lại
vùng Pháp chiếm đóng, trong khi nhiều tăng sĩ Phật Giáo đã đi theo kháng
chiến. Trong thời gian này, khoảng năm 1934, bác sĩ Lê Đình Thám (thân
phụ của ông Lê Đình Duyên, một đảng viên VN Quốc Dân Đảng, cựu giáo sư
trung học, cựu đổng lý Bộ Thông Tin, thời Nguyễn Khánh làm thủ tướng, cựu
dân biểu thời đệ nhị Cộng Hòa), đã cùng với Thượng
Tọa Thích Mật Thể lập ra trường An Nam Phật Học ở Huế, nhắm mục đích đào
tạo tăng sĩ.
Năm 1942, lúc đó Trí Quang vừa tròn 20 tuổi,
đã được tuyển vào học tại trường này, và thọ giáo với Hòa Thượng Thích Trí
Độ, giám đốc trường. Năm sau, 1943, Trí Quang tốt nghiệp khóa Phật Học
Trung Cấp. Nên biết HT Thích Trí Độ đã gia nhập đảng CSVN từ năm 1941, lúc
đảng này còn hoạt động trong bóng tối.
Đến năm 1945, sau khi VM cướp chánh
quyền, HT Thích Trí Độ được CSVN cử giữ chức chủ tịch trung ương Giáo Hội Phật
Giáo Cứu Quốc (PGCQ). Vì thế HT Trí Độ đã kéo một số tăng sĩ theo CS, trong đó có
Thích Thiện Minh, làm chủ tịch Ủy Ban PGCQ tỉnh Quảng Trị...Về phần Trí Quang, khi CSVM tuyên bố “toàn quốc
kháng chiến”, và ra lịnh cho quần chúng phải tản cư khỏi các đô thị lớn
như: Hà Nội, Huế và Sài Gòn v.v..., thì vào khoảng cuối năm 1946, Trí Quang
trở về nơi sinh quán, làng Diêm Điền. Một thời gian ngắn sau, Trí Quang lại
theo chân TT Thích Mật Thể ra Vinh. Nhưng Trí Quang chỉ ở Vinh có vài
tháng, rồi lại quay trở về Diêm Điền, để giữ chức chủ tịch Ủy Ban PGCQ tỉnh
Quảng Bình.
Đến năm 1947, khi quân Pháp tái chiếm Đồng
Hới, Trí Quang rời làng Diêm Điền, đến cư ngụ tại làng Trung Nghĩa, vì Diêm
Điền nằm quá gần thành phố, nên rất khó khăn thực hiện công tác bí mật.
Trong thời gian này, Trí Quang hoạt động
cùng một tổ với hai cán bộ nội thành của CSVM, tên Nguyễn Toại (còn gọi là Toại Béo), ở Đồng Đình, và Nguyễn Tịch ở Đồng Phú. Chẳng bao lâu sau, cũng trong năm 1947, Trí Quang, Toại Béo
và Nguyễn Tịch đều bị Phòng Nhì Pháp theo dõi bắt trọn ổ. Lần này, Trí
Quang và Nguyễn Tịch đã bị giam ở Trạm Thiên Văn Tam Tòa. Tuy bị trói giật
cánh khủyu, nhưng không hiểu làm cách nào nửa đêm Nguyễn Tịch đã tự cởi
trói và trốn thoát mất dạng. Ít lâu sau Trí Quang cũng đã được Pháp trả tự
do. Riêng tên Toại Béo, vì trong thời gian hoạt động cho VMCS, đã chỉ điểm
cho CSVM giết hại nhiều anh em hoạt động chánh trị quốc gia, chống CS, nên
khi bị bắt, Toại Béo đã phải trả nợ máu. Quân Pháp đã đem Nguyễn Toại ra xử
bắn, rồi chặt đầu, đem bêu ở chân Cầu Dài, phía Nam thành phố Đồng Hới. Về
sau, Pháp còn đem chiếc đầu lâu của Toại Béo về bêu ở cổng Quảng Bình Quan,
nằm về phía Tây thành phố. Nhưng sau khi được trả tự do ít lâu, Trí Quang lại
bị Phòng Nhì của Tây bắt lần nữa, vì tội vẫn còn tiếp tục hoạt động bí mật
và duy trì liên lạc với các cán bộ CSVM. Sau một thời gian bị giam, Trí
Quang đã được một viên chức bảo hộ của Pháp ở Huế bảo lãnh. Lần này Trí
Quang đã phải làm tờ cam kết không hoạt động cho CSVM nữa.
Sau lần phóng thích thứ nhì, Trí Quang nhận
thấy quê hương Đồng Hới không còn là nơi dung thân với những hoạt động bí
mật được nữa, Trí Quang liền vào Huế, trụ trì ở chùa Từ Đàm. Từ đó, bề
ngoài Trí Quang làm ra vẻ chỉ chăm lo Phật sự, nhưng ngấm ngầm bên trong
ông vẫn tiếp tục hoạt động cho CSVM.
TRÍ QUANG VỚI PHONG TRÀO HÒA BÌNH
Khoảng năm 1953, CSVM khởi sự chiến thuật vừa
đánh vừa đàm. Một mặt vẫn đánh nhau kịch liệt với Tây, mặt khác CSVM mở
chiến dịch vận động Phong Trào Hòa Bình trong nước và hải ngoại, để áp lực
Pháp phải ngưng chiến ở Đông Dương. Vì thế Ủy Ban Bảo Vệ Hòa Bình được CS
lập ra, do HT Thích Trí Độ lãnh đạo. Ở miền Nam, Trí Quang đã hoạt động
tích cực để ủng hộ ủy ban này. Đến năm 1954, sau Hiệp Định Genève, luật sư
Nguyễn Hữu Thọ ở Sài Gòn cũng thành lập “Phong Trào Hòa Bình” để yểm trợ
cho đường lối chánh trị của CSBV.
Ở Huế, lúc bấy giờ Trí Quang đang làm hội
trưởng Hội Việt Nam Phật Học, cũng hưởng ứng lời kêu gọi của CSBV, thành
lập một Phong Trào Hòa Bình tương tợ như của LS Nguyễn Hữu Thọ. Nhân sự
nòng cốt của Phong Trào Hòa Bình ở Huế, do Trí Quang thành lập, ngay từ giây
phút đầu tiên đã gồm toàn cán bộ CS nằm vùng thuộc chi bộ Thuận Hóa của bác
sĩ Lê Khắc Quyến. Ngoài ra, còn có sự tham gia của một số trí thức miền
Trung như: Nguyễn Cao Thăng, bác sĩ
Thú Y Phạm Văn Huyến, giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, ông Nguyễn Văn Đẳng v.v...
Lúc này ông Diệm đã về nước chấp chánh.
Ngày 29. 8. 54, Phong Trào Hòa Bình (PTHB) đã tổ chức lễ ra mắt tại Sài Gòn, và phổ biến tuyên cáo 2
điểm: yêu cầu quân Pháp rút khỏi miền Nam , và phải tổ chức ngay cuộc tổng
tuyển cử theo tinh thần hiệp định Genève. Gần một tháng sau, ngày 21. 9.
54, Phong Trào Hòa Bình tổ chức một cuộc biểu tình khá lớn tại Sài Gòn đòi
chánh phủ Ngô Đình Diệm phải trả những người Bắc di cư về lại miền Bắc và
tổ chức hiệp thương, rồi tổ chức tổng tuyển cử toàn quốc.
Trước tình thế đó, bắt buộc chánh phủ Ngô
Đình Diệm phải tỏ thái độ. Ngày 7.11. 54, chánh phủ ra lịnh bắt giam tất cả
những nhân vật trí thức đã tham gia hoạt động trong phong trào này. Ở Sài
Gòn, LS Nguyễn Hữu Thọ, kỹ sư Lưu Văn Lang, giáo sư Phạm Huy Thông, Kha Văn
Dưỡng, cùng với một số ký giả như Nguyễn Bảo Hóa, Trần Chi Lăng... đều bị
bắt.
Ở Huế, Thích Trí Quang, Nguyễn Cao Thăng, Lê
Khắc Quyến, Tôn Thất Dương Kỵ, Phạm Văn Huyến v.v...cũng không thoát khỏi mạng
lưới an ninh.
Nhưng, ở miền Trung, Ngô Đình Cẩn lại muốn
nhân dịp này noi gương Gia Cát Lựơng, trổ tài “thất túng, thất cầm” Mạnh
Hoạch. Ông Ngô Đình Cẩn đã dùng lời ngon ngọt, đem tiền bạc, địa vị và lợi
lộc ra chiêu dụ Trí Quang và đồng bọn. Cẩn
tin chắc rằng: với những tài liệu cụ thể của Phòng Nhì Pháp, chứng minh rõ
ràng Trí Quang đã từng hoạt động ngấm ngầm cho CS từ lâu, hiện đang nằm
trong tay ông, thì Trí Quang sẽ không đời nào dám cựa quậy, hay sanh lòng phản
trắc nữa.
Đến ngày 9. 2. 55, chánh phủ Ngô Đình Diệm đã
ra lịnh tống xuất 26 nhân vật đầu xỏ của PTHB ra Hải Phòng, trao cho CSBV.
Nhưng trong số đó đã không có Trí Quang, không có Lê Khắc Quyến và Nguyễn
Cao Thăng, Nguyễn Văn Đẳng... Như thế, ta không lấy làm lạ chẳng bao lâu
sau, Lê Khắc Quyến đã được gia đình nhà
Ngô trọng đãi, làm y sĩ riêng cho thân mẫu của Ngô Đình Cẩn, lại còn được
bổ nhiệm làm khoa trưởng Đại Học Y Khoa, Viện Đại Học Huế, giám đốc bịnh
viện trung ương Huế.
Nguyễn Cao Thăng được làm chủ nhân ông công
ty bào chế thuốc tây OPV, tiền bạc vô như nước lụt! Nguyễn Văn Đẳng, từ ngạch
Thừa Phái được chuyển ngạch sang Tham Sự Hành Chánh, rồi được bổ nhiệm đi
giữ chức tỉnh trưởng. Từ năm 1955 đến 1963, Nguyễn Văn Đẳng đã được bổ làm
tỉnh trưởng Thừa Thiên, kiêm thị trưởng Huế.
Riêng Trí Quang thì được Cẩn bỏ tiền ra
giúp đỡ trùng tu lại chùa Từ Đàm cho thêm phần khang trang, mỹ lệ. Nên
biết chùa Từ Đàm đã xây nên từ năm 1703, thời Minh Vương Nguyễn Phúc Chu. Khởi
đầu chùa này mang tên “Ấn Tôn Tự”. Đến đời vua Thiệu Trị (1841-
1847) chùa đổi tên là Từ Đàm (3 chữ
“Ấn Tôn Tự” bị coi như phạm húy). Vì là một ngôi cổ
tự, xây cất bằng những vật liệu thô sơ, nên đến thời Bảo Đại chùa Từ Đàm đã
bắt đầu bị hư mục.
Bởi thế trong khoảng thời
gian từ năm 1956 đến năm 1963, đồng bào miền Trung, nhất là dân Huế, không
còn ai lấy làm lạ khi thấy thỉnh thoảng ông Cẫn đã đến chùa Từ Đàm ăn cơm
chay với TT Trí Quang. Ngoài ra ông Cẩn còn tích cực yểm trợ cho các hoạt
động Phật Giáo của Trí Quang, ở chùa Từ Đàm, tô điểm thêm hào quang và làm
tăng thêm uy tín cho Trí Quang.
Ông Cẩn đinh ninh rằng: với hồ sơ của Phòng
Nhì Pháp trong tay cộng thêm sự giúp đỡ tiền bạc dồi dào, chắc chắn ông đã
nắm gọn được cả phần hồn lẫn phần xác của Trí Quang. Nhưng ông Cẩn đã sai
lầm hoàn toàn. Con rắn CS dù đã lột da bao nhiêu lần, nó vẫn là con rắn. Ông đã chơi trò chánh trị, muốn bắt chước Gia
Cát Khổng Minh “thất cầm Mạnh Hoạch”, nhưng rất tiếc, tài trí của ông Cẩn
không sánh được với Khổng Minh. Còn Trí Quang lại là một tay cán bộ CS thâm
căn cố đế, thì không bao giờ có thể trở thành Mạnh Hoạch được.
Như vậy, nói theo kiểu người Tây phương, ông
Cẩn đã “đùa với lửa”, còn nói theo kiểu VN ta thì ông Cẩn đã chơi trò “nuôi
ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà”, chẳng trước thì sau anh em nhà ông Cẩn cũng
sẽ bị Trí Quang tiêu diệt, đồng thời kéo theo cả sự sụp đổ của chế độ Đệ
Nhất Cộng Hòa.
TRÍ QUANG VÀ CHẾ ĐỘ DIỆM
Cho đến nay ai cũng biết chế độ Ngô Đình Diệm
đã bị quân đội, theo lệnh của Mỹ, làm đảo chánh. Ngược lại, gỉa thuyết, nếu
bấy giờ Mỹ chưa muốn lật đổ Diệm thì dù cho Trí Quang, Thiện Minh và nhóm
Phật Giáo đấu tranh miền Trung có mọc thêm ba đầu sáu tay cũng không làm
nên chuyện. Nhưng trên thực tế, ta phải nhìn nhận rằng, lúc khởi đầu
Trí Quang và Thiện Minh đã chủ động trong việc phản đối lệnh giới hạn việc
treo cờ Phật Giáo nhân dịp lễ Phật Đản năm 1963. Chẳng bao lâu sau cuộc
phản đối này đã được sự hộ trợ tích cực của tập đoàn cán bộ CS nằm vùng ở
Huế và một số tỉnh ở miền Trung, biến thành cuộc đấu tranh chánh trị, núp
dưới danh nghĩa Phật Giáọ Đặc biệt nhất là sự yểm trợ của một số cán bộ cao
cấp CS nằm vùng gồm: Võ Đình Cường, Nguyễn Trực và Tống Hồ Cầm... Trong thời
gian Trí Quang dùng Phật Giáo để đấu tranh, dân xứ Huế ai cũng thấy Võ Đình
Cường, Nguyễn Trực, và Tống Hồ Cầm đều là những cánh tay mặt và tay trái
của Trí Quang. Nhưng trên thực tế, các cán bộ CS cao cấp ấy đều là “cố vấn
trực tiếp chỉ đạo” của Trí Quang.
Vì thực chất Trí Quang chỉ
là một tu sĩ Phật Giáo có một trình độ học vấn rất đơn sơ của bậc tiểu học,
với một mớ chữ Hán giới hạn đủ để đọc kinh sách. Trí Quang không có trình độ Hán học của một nhà Nho, và cũng
không có chút hiểu biết gì về Tây học. Ngoài tiếng mẹ đẻ, Trí Quang không
nói được một ngoại ngữ nào, dù là Anh hay Pháp ngữ. Bởi thế, ta thấy đi đâu
Trí Quang cũng phải dắt theo Đại Đức Thích Nhật Thiện, như một bí thư kiêm
thông dịch viên. Với căn bản đó, nên tầm hiểu biết của Trí Quang rất hạn
hẹp, nhất là trên bình diện chánh trị quốc tế.
Theo hồ sơ của Phòng Nhì Pháp, người ta được
biết, Võ Đình Cường vốn là một đảng viên CS thâm niên. Cường đã được kết
nạp vào đảng từ năm 1943, cùng một lượt với TT Thích Minh Châu, về sau Minh
Châu đã trở nên Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh. Viện đại học này tọa lạc
ở gần đầu cầu Trương Minh giảng. Võ Đình Cường đã được CS chỉ định công tác
tuyên vận trong giới Phật Giáo miền Trung. Suốt trong thời gian từ 1947 cho
đến 1965, Võ Đình Cường đã bị bắt giam vì tội hoạt động cho CS nhiều lần,
nhưng đều được Trí Quang bảo lãnh, xin trả tự do. Kể từ cuối năm 1963, tựa
vào thế lực Phật Giáo đấu tranh miền Trung đang trên đà thắng lợi, Võ Đình
Cường đã ra mặt hoạt động công khai, không còn e ngại gì mạng lưới an ninh
của chế độ đệ nhị CH miền Nam.
Sau năm 1975, Võ
Đình Cường đã được đảng CSVN cử làm dân biểu quốc hội, kiêm tổng biên tập tạp chí Giác Ngộ, cơ quan tuyên vận chánh thức của khối
PG thuộc Mặt Trận Tổ Quốc, một tổ chức ngoại vi của đảng CSVN. Trụ
sở tạp chí Giác Ngộ đặt ở số 85 đường Nguyễn Đình Chiểu, quận 3, tp Sài
Gòn.
Về phần Thích Nhật Thiện, bí thư của Trí
Quang, tuy là tay chân thân tín của Trí Quang, nhưng sau ngày 30.4.75, cũng
đã bị CSBV bắt giam để điều tra, vì bị tình nghi đã hoạt động gián điệp cho
CIA Mỹ.
CSBV đã căn cứ trên sự kiện, đêm ngày 22. 8.
63, khi Ngô Đình Nhu ra lệnh cho Công An Cảnh Sát vây bắt tất cả sư sãi
trong các chùa Xá Lợi, Ấn Quang, Theraveda... không một ai thoát được, duy chỉ có Trí Quang, đã nhờ Thích Nhật Thiện
đem đi trốn trong cơ quan USAID, rồi chuyển qua tòa đại sứ Mỹ. (Trong
tác phẩm VNNC của Trần Văn Đôn cũng có ghi điều này).
Vậy, phải chăng Thích Nhật Thiện đã có móc
ngoặc với CIA Mỹ? Còn Trí Quang thì sao? Đó là những vấn nạn trầm trọng cho
cả hai thấy trò Trí Quang và Nhật Thiện!
Ngoài ra, tôi còn được biết thêm Thích Nhật
Thiện, tên thật là Lê Mậu Chí, còn gọi là Hàm, sanh quán tại Thừa Thiên.
Trước di cư năm 1954, Lê Mậu Chí đã làm công
an thuộc ty CA Đồng Hới, rồi chuyển vào ty CA Khánh Hòa. Tại đây, vì gian
díu tình ái lăng nhăng, Lê Mậu Chí đã bị đổi ra chi CA Sông Cầu. Không bao
lâu sau, năm 1959, Lê Mậu Chí bị sa thải luôn khỏi ngành CA. Mất việc, Lê
Mậu Chí mò vào Sài Gòn, xin xuất gia đầu Phật, và học thêm Anh Văn. Khoảng
các năm 1963 đến 65, Thích Nhật Thiện trụ trì tại một ngôi chùa thuộc quận Nhì,
gần khu chợ Cầu Muối. Trong thời gian này, khi ra tranh cử ở quận Nhì, tôi
và Hồ Ngọc Cứ thường gặp Thích Nhật Thiện.
Theo dõi, quan sát kỹ lưỡng cuộc đấu tranh từ
khởi đầu, lúc tháng 5. 1963 cho đến ngày miền Nam mất vào tay CSBV, người
ta nhận ra các phương thức xách động quần chúng đô thị đấu tranh kiểu Cộng
Sản đã được Trí Quang và nhóm Phật Giáo đấu tranh miền Trung đem ra áp dụng
triệt để. Cao điểm của cuộc đấu tranh Phật giáo miền Trung đã đạt được là
đẻ ra một tổ chức chánh trị hoạt động song hành lấy tên là “HỘI ĐỒNG NHÂN
DÂN CỨU QUỐC” sặc mùi Cộng Sản, và nhóm “LẬP TRƯỜNG”, do toàn cán bộ CS nằm
vùng đứng ra lãnh đạo như: Lê Khắc Quyến, chủ
tịch chi bộ Thuận Hóa, Lê Tuyên, Tôn Thất Hanh, Nguyễn Ngọc Bang, Cao Huy
Thuần, anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Lê Văn Hảo (hiện đang ở Pháp)...
Vì cái tên “Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc” sặc
sụa mùi CS, và lộ liễu quá, nên khó thu hút được các thành phần khác, nên
chỉ một thời gian ngắn sau, Trí Quang ra lịnh cho cải danh là “LỰC LƯỢNG
TRANH THỦ CÁCH MẠNG”. Đây chỉ là trò “bình mới rượu cũ”, một thủ đoạn chánh
trị quen thuộc của CS, chẳng khác nào như đảng CSVN cải danh thành đảng Lao
Động vậy!
Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, hậu thân của
HĐNDCQ, ra đời với sự tham gia bí mật của nhiều cán bộ cao cấp CSBV, nhắm
mục tiêu thừa thắng xông lên, mượn danh nghĩa nhân dân bị độc tài gia đình
trị áp bức nổi dậy, cướp chánh quyền miền Nam bằng bạo lực chánh trị. Nếu
mục tiêu lớn, toàn quốc không đạt được, Trí Quang sẽ tiến tới kế hoạch thỏa
hiệp với một số tướng lãnh gốc miền Trung, tranh đấu đòi “MIỀN TRUNG TỰ
TRỊ”, làm cho chế độ miền Nam bị tê liệt.
Trong thời gian, kể từ sau
ngày 1.11.63 trở đi Trí Quang tuy khoác áo tu hành, nhưng thực ra là một
lãnh chúa quyền khuynh thiên hạ, các tướng lãnh cầm quyền đều kiêng dè, nể
mặt. Điều này ai cũng đã thấy biết. Đặc biệt nhất là Dương Văn Minh, một cán bộ CS nằm vùng ở trong Nam giống hệt như Trí Quang nằm vùng ở miền
Trung, đến giờ phút cuối cùng, ngày 30.4.75, vẫn còn phải
“nhất bộ tam bái” đến “HOÀNG CUNG ẤN QUANG” chầu chực Trí Quang cả ngày lẫn
đêm, để lãnh chỉ thị!
Căn cứ trên các sự kiện kể trên, ta mới có
thể hiểu được cách chính xác, vì sao sau ngày chế độ nhà Ngô sụp đổ, các
tay chân thân cận của gia đình họ Ngô như: BS Lê Khắc Quyến đã không bị kết
tội “DƯ ĐẢNG CẦN LAO NHÂN VỊ”, Nguyễn Cao Thăng, đã kinh tài cho Ngô Đình
Cẩn và đảng Cần Lao mà không bị rụng sợi lông chân nào, lại còn được hưởng
trọn gia tài OPV của Cẩn để lại.
Riêng vụ nổ trước đài Phát Thanh Huế, chỉ
riêng một mình thiếu tá Đặng Sĩ, phó tỉnh trưởng Nội An, cấp thừa hành của
tỉnh trưởng Nguyễn Văn Đẳng, bị đưa ra tòa truy tố và bị tù khổ sai chung
thân. Trong khi đó, tỉnh trưởng Nguyễn Văn Đẳng, kiêm thị trưởng thành phố
Huế, người chịu trách nhiệm toàn bộ hành chánh và an ninh tại địa phương
lại được nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, rồi về sau lại còn được chuyển về
bộ Quốc Phòng giữ chức Công Cán Ủy Viên, thời tướng Đôn làm tổng trưởng.
Bạn đọc có biết tại sao
không? Vì Đẳng vốn là tay chân bộ hạ thân tín từ lâu của Trí Quang trong các
Phong Trào Hòa Bình đấy!
CẤU KẾT GIỮA TRÍ QUANG VÀ LÊ KHẮC QUYẾN
Trong phong trào Phật Giáo đấu tranh miền
Trung năm 1963, do Trí Quang và một số tăng ni nằm vùng và toàn thể cán bộ
CS trong chi bộ Thuận Hóa của Lê Khắc Quyến tích cực yểm trợ. Bọn CS nằm
vùng này biết rõ hơn ai hết, các thầy trong chùa Từ Đàm chỉ có một số PT
giới hạn, nhưng không có cán bộ xách động đấu tranh chuyên nghiệp. Bọn CS
có cán bộ thành thạo việc xách động quần chúng, biết cách tổ chức đấu tranh
có qui củ. Trong khi đó quần chúng VN đại đa số đều nghèo khổ, không có địa
vị, nên thường dễ dàng nghe theo lời tuyên truyền rỉ tai, và dụ dỗ của CS
nằm vùng. Nếu có kẻ nào cứng đầu, không nghe, bọn CS nằm vùng không ngần
ngại gì áp dụng ngay biện pháp hù dọa. Có khi chúng dùng chính bàn tay của
cơ quan an ninh và chánh quyền địa phương mù quáng, để thực thi những lời
hăm dọa của chúng, khiến cho người dân thấp cổ bé họng chẳng còn biết nương
tựa vào ai, phải khiếp sợ ngấm ngầm CS.
Ngay trong giai đoạn đầu, bọn cán bộ CS nằm
vùng kể trên đã xuất hiện với lý do chính đáng là ủng hộ triệt để yêu sách
của Phật Giáo, nguyện hy sinh tranh đấu cùng các tăng ni, Phật tử, rồi lại
còn hô hào vận động thêm quần chúng tham gia đông đảo hơn nữa. Sau đó các
thầy được đề cao lên đến tận chín tầng mây xanh, tưởng chừng như đức Phật
Thích Ca sống lại cũng không bằng. Trong trường hợp này, dĩ nhiên các thầy
đều không khỏi sướng rên lên. Vì các thầy đâu đã thành Phật hay Bồ Tát gì.
Trong bụng ông thầy tu nào cũng vẫn có một phần cơm và một phần cứt như mọi
chúng sinh thôi!
Từ đó các thầy chẳng khác nào những con cá đã
ngậm phải lưỡi câu vô hình của bọn CS nằm vùng. Khi chợt biết ra, các thầy
muốn nhả lưỡi câu trong họng cũng không còn kịp nữa. Vả lại, một khi đã
được "thần thánh hoá" rồi còn ai dại gì muốn quay đầu trở lại, hiện
nguyên hình làm một tên phàm phu tục tử nữả! Ấy
là chưa kể đến yếu tố TT Trí Quang chính là một cán bộ CS gộc. Điều này,
tôi sẽ chứng minh trong một đoạn tớị Sau hơn 20 năm lưu vong, đồng bào tị
nạn ở hải ngoại cũng như trong nước đều đã biết hết cả rồi.
Trong đoạn này, tôi cần phải chứng minh cho
mọi người thấy rõ cuộc đấu tranh của PG miền trung đã bị CS nằm vùng thao
túng và lộng hành từ đầu đến cuối, như đang giữa thủ đô cờ đỏ sao vàng Hà
Nội. Các sư Trí Quang, Thiện Minh chỉ là những kẻ cho mượn danh nghĩa, các
chùa Từ Đàm, Diệu Đế chỉ là diễn trường của những vở bi hài kịch, và lá cờ
PG chỉ là một cái vỏ bọc ngoài của một cái nhọt chánh trị đã tới hồi cương
mủ, phải được xì ra.
Nếu bạn đọc là những người từng theo dõi thời
cuộc nước nhà trong những tháng từ 5 đến 11, năm 1963, chắc hẳn chưa quên
tờ báo "LẬP TRƯỜNG", với nhóm cán bộ CS nằm vùng đứng đầu là BS
Lê Khắc Quyến.
Ngay từ lúc này, chi bộ Thuận Hóa của bác sĩ Lê Khắc Quyến, anh em nhà Hoàng Phủ
Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Lê Văn Hảo (hiện đã đào tẩu thiên đàng CS,
chạy qua Paris rồi!), Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên, Thân Trọng Phước, Võ Đình
Cường, cư sĩ PG, tác gỉa cuốn "ÁNH ĐẠO VÀNG"... đã nhập cuộc.
Hiện nay Lê Khắc Quyến đã chết rồi, nhưng các
đồng chí của ông ta vẫn còn sống và đang hoạt động cho CS. Bây giờ Võ Đình
Cường đang phụ trách báo "GIÁC NGỘ",
ở đường Nguyễn Đình Chiểu, (tên cũ
Phan Đình Phùng) là một tờ báo của tổ chức PG quốc doanh. Hơn
thế nữa, nhóm CS nằm vùng này lại còn lập ra một tổ chức nhân dân hoàn toàn
rập khuôn theo kiểu CS, với cái danh xưng cũng nồng nặc mùi CS là:
"HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CỨU QUỐC".
Chính Lê Khắc Quyến đã đứng tên chủ tịch của Hội
Đồng. Nhóm ấy đã núp dưới danh nghĩa PG đấu tranh, lợi dụng tình thế rối
loạn ở miền Trung, ngày 21. 9. 1964 đã tụ tập và kéo nhau đến đánh chiếm
đài phát thanh Huế, đốt phá nhiều cơ sở chánh quyền ở Huế và Qui Nhơn...
Đêm 23.1.65, bọn "HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN CỨU QUỐC" của Lê Khắc Quyến còn kéo nhau đến phòng thông
tin Mỹ ném đá và đốt cháy thư viện Mỹ, gây thiệt hại trên 5000 quyển sách. Khi đó, ông phó lãnh sự Mỹ hay tin, đến nơi lo chữa cháy để
cứu sách trong thư viện cũng đã bị bọn tay chân bộ hạ của Lê Khắc Quyến
chọi đá vào ông ta, khiến ông ta đã bị thương trầm trọng, phải đưa vào nhà
thương cấp cứu. Hành động lợi dụng danh nghĩa PG đấu tranh chống kỳ thị tôn
giáo, bọn Lê Khắc Quyến và HĐNDCQ của hắn đã phá rối nền trị an ở Huế đến
cùng cực. Những ai đã từng ở Huế trong thời gian này đều không khỏi ngao
ngán, tưởng chừng như là một xứ "VÔ CHÁNH PHỦ" hay CSBV sắp
vào tiếp thu đến nơi rồi!
Mặc dù Lê Khác Quyến và đồng bọn đã hành động
phản bội quân dân miền Nam cách trắng trợn và công khai như thế - chỉ còn
thiếu việc kéo cờ đỏ sao vàng lên Ngọ Môn Quan nữa mà thôi! - nhưng hắn vẫn
không bị điều tra, và chẳng gặp chút khó khăn nào trước chánh quyền và luật
pháp. Ngược lại, bọn độc tài quân phiệt
Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh và Nguyễn Văn Thiệu... vẫn còn trọng dụng và
ưu đãi hắn.
Ngày 8. 9. 1964, Lê Khắc Quyến và Tôn Thất
Hanh đã được bổ nhiệm vào cái gọi là: "THƯỢNG HỘI ĐỒNG QUỐC GIA".
Sau đó Lê Khắc Quyến lại còn được đổi vào Sài
Gòn cho làm giám đốc bệnh viện Sùng Chính, trong Chợ Lớn. Vây, Lê Khắc
Quyến là aỉ Nhân dân cố đô Huế không ai lạ gì ông bác sĩ đã được hưởng
nhiều ơn mưa móc nhất của gia đình nhà họ Ngô trong suốt 9 năm trời. Đồng
thời người dân xứ Huế cũng thừa biết ông ta là người "thân với bên
kia"!
LÊ KHẮC QUYẾN LÀ AI.
Ngay từ khi ông Diệm chưa về nước chấp chánh,
năm 1952, BS Lê Khắc Quyến đã được gia đình nhà họ Ngô mời làm y sĩ riêng
cho thân mẫu của ông Diệm. Đến khi ông Diệm về nước, làm thủ tướng, rồi làm
tổng thống, quyền uy lừng lẫy một thời, ở ngoài Trung, ông LK Quyến ra vào
dinh Phủ Cam hàng ngày như ra vào nhà của ông. Ngoài những ưu đãi về vật chất và thế lực chánh trị, LK Quyến còn
được ông Diệm tặng riêng cho một chiếc xe du lịch hiệu Mercedes, trị gía
khoảng 200.000 đồng.
Thời kỳ 1955-56, loại xe
này được qui định là xa xỉ phẩm, cấm nhập cảng cho quần chúng xử dụng. Xe
đó thuộc chế độ ưu tiên nhập cảng, chỉ dành riêng cho chánh phủ và một số dân
biểu trong quốc hội đệ nhất Cộng Hòa.
Tưởng cũng nên nhắc lại một chút dữ kiện để
bạn đọc trẻ tuởi ở hải ngoại dễ hình dung trị gía của số tiền 200.000 đồng
VN thời 1955-56: Lúc ấy, người công chức chỉ được lãnh mỗi tháng khoảng
1.800 đồng. Với số lương đó, người ta có thể nuôi được vợ và một đứa con!
Nhờ dựa vào thế lực nhà Ngô, LK Quyến còn được dạy học tại đại học Y Khoa
Huế, và sau đó kiêm luôn chức khoa trưởng Y Khoa, thuộc viện đại học Huế.
Trong thời kỳ này chi bộ Thuận Hoá, dưới
quyền chỉ huy của cán bộ LK Quyến vẫn âm thầm hoạt động, thật kín đáo, để
không bị lộ tung tích. Dù bận rộn một lúc nhiều chức vụ, nhiều công việc
quan trọng, như: y sĩ riêng cho bà thân mẫu TT Diệm, giáo sư, khoa trưởng
phân khoa y học, bác sĩ LK Quyến vẫn cố
gắng duy trì phòng mạch của ông, đã mở từ trước năm 1952, tại gần cửa
Thượng Tứ, Huế. Vì chính nơi đây là trạm giao liên, đồng thời còn là trạm
cứu thương, đặc biệt dành cho các cán bộ CS cao cấp thường lén về nằm điều
trị. Phòng mạch của LK Quyến đã được trang bị chẳng khác nào như một bệnh
xá, có nhiều giường điều trị, với đầy đủ tiện nghi tối tân cấp cứu và giải
phẫu ngoại khoa.
Bệnh nhân, nếu là thường dân, muốn đến phòng
mạch của BS Quyến để khám bệnh phải xin thẻ trước, lấy số trước, hoặc phải
lấy ngày, giờ hẹn trước. Nhưng các cán bộ CS, đồng chí của BS thì được ưu
tiên nhận bệnh và ưu tiên điều trị, không cần phải có một thủ tục nào. Bởi
các bệnh nhân đặc biệt ấy đã được thông báo trước bằng giao liên, hay bằng
mật mã, ám hiệu, hoặc bằng khẩu hiệu đặc biệt của cơ sở, trong trường hợp
nghiêm trọng và cấp bách.
Tôi xin đơn cử một trường hợp điển hình, cụ
thể, mà tôi đã biết được. Dĩ nhiên, còn vô số trường hợp khác nữa, mà tôi
không biết hết.
- Vào khoảng mùa Hè, năm 1952, một cán
bộ CS hạng gộc, tên Oanh, thuộc xã Hương Bình, quận Hương Trà, tỉnh Thừa
Thiên, con ông Viên Tứ, khá nổi tiếng ở Huế, đã bị “cảm sốt cấp tính” rất
nặng, có thể nguy đến tính mệnh, đã được BS Quyến đặc cách nhận bệnh, và
chữa trị trong phòng riêng của phòng mạch, không ghi vào sổ nhận bệnh hay danh
sách bệnh nhân. Tóm lại không để lại một dấu vết nào của tên Oanh trong hồ
sơ.
-Nhân viên trong phòng mạch của BS Quyến đều
là cán bộ giao liên của CS. Ngoài một người y tá đàn ông, tên Nuôi, còn có
một nữ y tá tên Thảo, người ở thôn Vỹ Dạ, Phú Vang, đã có chồng đi tập kết.
Đến sau năm 1954, nữ y tá Thảo của BS Quyến cũng bỗng nhiên biến mất khỏi
phòng mạch, không ai biết đi đâu, và cũng chẳng ai tìm ra tông tích. Về
sau, trong thời kỳ Tết Mậu Thân, người dân đất Thần Kinh mới đột nhiên hoảng
vía khi thấy vợ chồng nữ y tá Thảo thình lình xuất hiện. Theo tôi, người
biết rõ tông tích của BS Lê Khác Quyến nhất, hiện nay còn đang sống ở Pháp, là ông Võ Như Nguyện, người đã từng
giữ chức giám đốc Công An Trung Phần từ trước năm 1954.
Còn thiếu tướng Đỗ Mậu, tuy đã từng nắm chức
vụ giám đốc Nha An Ninh Quân Đội trong một thời gian khá lâu dài, dưới thời
đệ nhất CH, nhưng cũng đã tỏ ra không biết gì nhiều về mặt trái của LK Quyến.
Có thể TT Đỗ Mậu đã e ngại tư thế của LK
Quyến, y sĩ điều trị riêng cho thân mẫu của tổng thống Diệm và là người đã
được ông Cẩn rất trọng nể, nên không dám sờ đến.
Trong quyển hồi ký VNMLQHT, khi đề cập đến
những biến động dữ dội tại miền Trung, dưới thời kỳ tướng râu dê Nguyễn
Khánh cầm quyền, tác gỉa cũng chỉ nhận xét về BS Lê Khắc Quyến bằng một câu
đơn giản như sau: "Trong hàng ngũ đấu tranh Phật Giáo, trước hết có
các ông Lê Khắc Quyến, chủ tịch Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc là một phần tử thân
kháng chiến mà nhiều người ở Huế biết rõ." (trang
912).
Về mặt nổi LK Quyến làm chủ tịch HĐNDCQ,
nhưng về mặt chìm, LK Quyến còn là chi bộ trưởng của chi bộ Thuận Hoá của
CSBV. Thành phần cán bộ đảng viên gồm những người có tên sau đây:
Tướng Lê Văn Nghiêm, trước năm 1954, khi quân Pháp vừa thất trận Điện Biên Phủ,
đồng thời cũng là lúc mặt trận chánh trị Quốc-Cộng ở VN đang sôi động nhất,
đã vội vã đem dâng toàn bộ bản đồ hành quân, có chấm tọa độ sẵn, trao cho
người thân tín đem ra khu cho CS. Người đó là thầu
khoán Nguyễn Ngọc Bang, một đồng chí của
Lê Khắc Quyến và Lê Văn Nghiêm.
Lúc bấy giờ Lê Văn Nghiêm đang mang lon trung
tá. Ông ta vốn xuất thân lính khố xanh.
Nhờ đã lập được nhiều công trạng hữu ích cho
cách mạng từ nhiều năm qua, nên sau năm 1975, cựu tướng Lê Văn Nghiêm đã
không bị quân CSBV bắt đi học tập cải tạo như hàng trăm ngàn sĩ quan khác
trong quân đội Ngụy quyền miền Nam . Ông ta đã được CSBV ưu đãi cho ở nhà
hú hí với vợ con, tại đường Lý Thường Kiệt, ở Huế, cho đến khi chết.
Lê Văn Nghiêm vốn là bạn thân với BS Lê Khắc
Quyến, Nguyễn Ngọc Bang và thân Nguyễn Ngọc Bang vốn làm nghề thầu khoán
xây cất, khá nổi¼ Trọng Phước tiếng ở miền Trung.
Vào khoảng năm 1984, Nguyễn Ngọc Bang đã được
sang Mỹ tị nạn theo diện đoàn tụ gia đình, nhưng ông ta đã qua đời khoảng
năm 1991.
-Một cán bộ CS khác tên Lê Hữu Trí, làm nghề thợ
mộc, có xưởng mộc tại đường Nguyễn Hoàng (tên cũ) ở Huế. Trong vụ tàn sát ở Huế dịp tết Mậu Thân, tên Trí đã lập
thành tích lớn, một tay đã giết khá nhiều người. Theo hồi ký của tướng CS
Lê Minh
(nay đã chết) có đoạn ghi nguyên văn như sau: ”Riêng chuẩn bị cho Mậu Thân chúng tôi đã đưa
200 khẩu súng với chất nổ C4 vào bên trong nhà anh Lê Hữu Trí, Minh-Cận đều
chứa vũ khí”.
Ngoài ra, tôi còn được biết thêm: Tên Trí đã
hoạt động cho CS từ thời Pháp còn ở VN, rồi đến đệ nhất và đệ nhị CH không hề
bị khó dễ. Tôi càng ngạc nhiên khi thấy các cơ quan an ninh dân sự lẫn quân
sự đều làm lơ trước những hành động phi pháp của hắn. Tôi thấy, trước khi
vụ Tết Mậu Thân diễn ra, nếu chính quyền VNCH ở địa phương bắt tên Trí và
đồng bọn, thì hàng vạn đồng bào ở cố đô Huế đâu đã bị chết thảm trong bàn
tay tàn ác của quân CSBV! .
Sau ngày 30.4.75, người dân xứ Huế đã thấy
tên thợ mộc Trí, một đồng chí trong chi bộ Thuận Hóa của BS Quyến, đã xuất
hiện hoạt động công khai cho chánh quyền CS tại địa phương. Ngoài ra, chi
bộ Thuận Hoá của BS Quyến còn có 2 vợ chồng tên Hiển, làm nghề bào chế
thuốc tây (préparateur
en pharmacie).
Vào khoảng năm 1950-51, tên Hiển đã bị Tây
hành quân, phục kích bắn chết trong một đêm kia tại bến đò "BA
BẾN", nằm về phía quận Hương Thủỵ Còn
người vợ của Hiển, sau đó cũng đã bị khai trừ ra khỏi đảng, không
hiểu vì lý do gì, hiện nay người đàn bà này đang
sống tị nạn tại Canada, gần chỗ tị nạn của mấy người con của BS Quyến, và
mấy người con của tướng Lê Văn Nghiêm.
Nếu bạn đọc còn chưa hài lòng về những thành
tích nằm vùng, ăn cơm quốc gia thờ ma CS của bác sĩ Lê Khắc Quyến, thì đây,
tôi xin kể tiếp một bằng chứng nữa:
- Chuyện không may này bất ngờ đã xảy ra vào khoảng
cuối năm 1962. Hôm ấy, ty Công An tỉnh Thừa Thiên đã trình sang tòa hành
chánh tỉnh một công văn "MẬT" có liên quan đến BS Quyến. Người
tiếp phát công văn "MẬT" ấy là Công Tằng Tôn Nữ Như, một nữ tu
xuất, em của ông Bửu Đồng (ở Đức*) và là chị của
ông Bửu Sao (ở Orlando, Mỹ), con ông Ưng Trạo, có trách nhiệm trước tiên vô sổ công
văn, ghi trích yếu, rồi mới phân phối ra, đệ trình lên cấp thẩm quyền giải
quyết. vì công văn "MẬT" này có tầm mức quan trọng đặc biệt, nên
giới chức trong tòa tỉnh đã phải cấp tốc trình thẳng lên ngay cho ông tỉnh trưởng
Nguyễn Văn Đẳng duyệt xét. Nội dung công văn MẬT ấy như sau:
- "Một xe chở đầy thuốc tây đã bị lật trên lộ
trình Cầu Hai - Lăng Cô, quốc lộ 1, thuộc địa phận quận Phú Lộc. Người phụ
trách chuyến xe chở thuốc tây này tên là Phạm Văn Nhân, nhân viên tùng sự
tại bệnh viện Huế. Trong cuộc thẩm vấn sơ khởi của công an, Phạm Văn Nhân
khai là chở thuốc tây cung cấp cho chi y tế quận Phú lộc, theo lệnh của BS
Lê Khắc Quyến, giám đốc bệnh viện..."
Theo tường trình của công an tỉnh thì lời
khai của Phạm Văn Nhân hoàn toàn sai sự thật. Vì 2 lẽ sau đây:
- Vấn đề giao thuốc tây cho các Chi Y Tế
thuộc phần việc và trách nhiệm của Ty Y Tế tỉnh, tuyệt nhiên không liên
quan gì đến bệnh viện Huế, dưới quyền điều khiển của BS Quyến.
- Chi Y Tế Phú Lộc nằm tại Truồi, quận lỵ,
chứ không phải Cầu Hai - Lăng Cô.
Nên biết rằng từ Lăng Cô đến đèo Hải Vân
không xa mấy. Nơi đây vốn là địa điểm giao liên quan trọng của Cộng Sản
suốt trong thời kỳ chiến tranh. Theo tường trình của công an tỉnh thì đây
là vụ tiếp tế thuốc tây cho CS, và bởi thế nên công an đề nghị nên cần phải
thẩm vấn BS Quyến, rồi lập các thủ tục cần thiết chiếu theo luật định. Vì công
văn này chỉ là bản sơ trình, nên cần phải được cấp trên cho phép tiến hành
thủ tục thẩm vấn, nhiên hậu mới có thể thiết lập hồ sơ theo luật định. Sau
khi hồ sơ đã hoàn tất mới tái trình lên tòa tỉnh và các cơ quan thẩm quyền
liên hệ, để thực hiện giai đoạn chót của thủ tục là truy tố can nhân và
tòng phạm ra tòa án. Nhưng công văn MẬT này của Ty Công An tỉnh đã bị một
bàn tay cao cấp nào đó trong guồng máy chánh quyền thủ tiêu luôn. Thế là
nội vụ bị xử chìm xuồng, và tội tiếp tế thuốc tây cho CS của BS Quyến cũng
được ếm nhẹm luôn.
Điều đáng nói thêm ở đây, nhân viên có trách
nhiệm tải thuốc tây cho CS tên Phạm Văn Nhân lại chính là cháu ruột của Phạm
Văn Đồng, lúc bấy giờ đang làm thủ tướng chánh phủ CSBV, anh em với giáo sư
Việt Văn Phạm Văn Diêu, ở Sài Gòn. Anh Phạm Văn Diêu lớn hơn tôi vài tuổi
và đã dạy chung với tôi trong nhiều trường tư thục ở Sài Gòn. Dịch vụ tiếp tế
thuốc tây cho CS ở miền Nam, trong suốt thời kỳ chiến tranh, nhất là dưới
thời các tẩu tướng tham nhũng, thối nát cầm quyền, đã trở thành gần như
"CÔNG KHAI PHỔ BIẾN". Nếu chẳng tin, xin cứ hỏi các ông bà chủ
các viện bào chế như: Trang Hai, La Thành Nghệ, Nguyễn Cao Thăng, Trương Văn
Chôm, và các dược sĩ như: Ngô Khắc Tĩnh, Trần Văn Lắm, cựu chủ nhân nhà
thuốc tây Cường Lắm, ở góc đường Thủ Khoa Huân và Lê Thánh Tôn, gần tiệm
vàng con cọp Nguyễn Thế Tài... thì rõ!
Để có một cái nhìn chính xác về biến động
miền Trung, tôi nhận thấy cá nhân ông Diệm
là người có tư cách đạo đức hơn hẳn nhiều người khác mà tôi đã có dịp biết.
Ông Ngô Đình Nhu xứng đáng là người trí thức, có mưu lược, tư tưởng phóng
khoáng, quan niệm về tôn giáo và chánh trị rất dứt khoát. Hai ông ấy không
cuồng tín và chủ trương kỳ thị tôn giáo.
Nên nhớ là vào khoảng năm 1956-57, tổng
thống Ngô Đình Diệm đã duyệt y việc thành lập Phật giáo thống nhất, cho
phép các khuôn hội, Niệm Phật Đường mở cửa tự do, và các Phật tử trên toàn
quốc dược tự do đi lại hành lễ, không có ai cản trở hay làm khó dễ điều gì.
Ngày xưa, nếu nhà vua mù quáng mà có được bầy
tôi trung thành, nghĩa khí, như Biển Thước dám mắng tận mặt vua Tần Vũ
Vương, thì dù cho ông vua có hôn mê, đần độn đến đâu cũng phải tỉnh ngộ, và
đất nước lo gì không có ngày hưng thịnh. Ngược lại, ngay từ đầu, triều đình
nhà Ngô đã bị bao vây bởi một số linh mục di cư chỉ biết có quyền lợi trước
mắt. Đến khoảng cuối thập niên 50 sang đầu thập niên 60, triều đình này lại
bị bao vây bởi một lũ văn quan, võ tướng bất tài, nhưng lại đặc biệt giỏi
về tài nịnh hót, bợ đỡ. Đứng đầu sổ gia nô là các ông: Trương
Vĩnh Lễ, cựu chủ tịch quốc hội bù nhìn, Nguyễn Phương
Thiệp, tổng thơ ký quốc hội, Bùi Văn Lương,
nguyên tổng ủy trưởng Dinh Điền, sau làm bộ trưởng Nội Vụ, thay thế thẩm
phán Lâm Lễ Trinh.
Về phía quân đội thì có Tôn Thất Đính,
Huỳnh Văn Cao, Trần Thiện Khiêm... đã từng được coi như con nuôi
của ông Diệm.
Riêng Trí Quang và Lê Khắc Quyến cũng là
những kẻ đã được hưởng ơn mưa móc rất dồi dào của chế độ. Nhưng về sau
chính những kẻ thọ ơn ấy đã âm mưu giết chủ của họ. Lòng dạ con người thật
là phản trắc vô thường. Đáng ghê sợ thật!
TRÍ QUANG CHO MINH CỒ LEO CÂY THA MỠ BÒ!
Từ lâu Dương Văn Minh đã đặt hết kỳ vọng vào
TT Trí Quang, coi Trí Quang như một cố vấn chỉ đạo đặc biệt, một trung gian
thế lực, để thiết lập mọi thương thảo với quân CSBV. Mặt nạ “NẰM VÙNG” và
“THAM VỌNG CÁ NHÂN” của Dương Văn Minh và Trí Quang mãi đến phút chót của
Sài Gòn mới được hai người ấy tự tay gỡ xuống.
Theo lời của tướng Nguyễn
Hữu Có, lúc ấy đang đóng vai phụ tá cho ông Minh, kể lại nguyên
văn như sau:
- "Ngày 29.4.75, là
ngày tôi vất vả nhất. Đi đâu Minh Cồ cũng đem tôi theo, nhất là họp hội bên
Ấn Quang. Lệnh thầy (Trí
Quang) bảo đến lúc nào là đi lúc
đó. Tội nghiệp cho Minh Cồ làm tổng thống nhưng lại giữ nhiệm vụ kẻ thừa
hành, giống như một đại đội trưởng nhận lệnh miệng của tiểu đoàn trưởng
thôi. Nhiều lúc tôi tự nghĩ Minh Cồ làm tổng thống hay Thích Trí Quang
đây?...Tôi nhớ có một lần họp tại Ấn Quang do Thích Trí Quang chủ tọa cùng một
vài thầy chùa khác, tôi không biết mặt và tên. Phía bên này có Minh Cồ, ông
Mẫu, Lý Chánh Trung. Tôi ngồi sau lưng Minh Cồ (gần như cố vấn quân sự của Minh Cồ). Thích Trí Quang nhìn tôi với
cặp mắt nhỏ, sâu, đầy nham hiểm, lườm một cái để chuyển sang hướng khác.
Mình cũng biết chứ, “thầy” có ưa gì mình đâu vì vụ “bàn thờ Phật“ xuống đường
1966 và vụ biến động lớn miền Trung đâu có thể xóa đi trong đầu óc Trí
Quang với ba tên “Thiệu-Kỳ-Có”. Rõ ràng với tôi, Trí Quang không bao giờ ưa
và tôi nghĩ rằng nếu ”thầy“ có dịp là trả thù.
Tuy biết phận mình, nhưng
Minh Cồ đâu còn ai bên cạnh trong việc đánh đấm? Hơn nữa, lúc đó có lẽ Minh
Cồ cũng hiểu rằng chỉ có tôi mới thực sự vì ông ta, vì chính cái thành công
của ông ta là cái thành công của tôi. Ở đời ai cũng có tham vọng lớn cả và
luôn luôn nghĩ rằng mình sẽ đạt được. Cũng chính vì thế mà đã lắm chuyện.
Thực sự hôm nay ở trong tù
tôi nghĩ lại mà thấy tội nghiệp cho Minh Cồ, thích làm tổng thống mà khả
năng quá hạn chế, do đó bị Thích Trí Quang điều khiển đủ mọi chuyện...
Ngày lịch sử trong đời làm
chánh trị của Minh Cồ không phải là ngày nhận chức tổng thống mà chính là
ngày 29.4.75, vì ngày này từ 8 giờ sáng đến 12 giờ khuya Minh Cồ và tôi
phải đến "HOÀNG CUNG ẤN QUANG" 5 lần và lần nào cũng với nội
dung là "THẦY" cũng hứa hẹn một cách chắc chắn không thể sai lệch
là sắp xong. Bên kia chậm lắm là tối 29.4.75 hay sáng 30.4.75 sẽ bàn thảo
việc thành lập Chánh Phủ Liên Hiệp...
Sở dĩ đêm 29.4.75 có
chuyện tôi đi đến Ấn Quang cũng là vì lời hứa miệng của Thích Trí Quang nàỵ
Sau lúc 2 giờ sáng, chúng tôi phải rời Ấn Quang về dinh Độc Lập chờ ý
“thầy”. Mệt mỏi thật, Minh Cồ ngồi nơi bàn tổng thống bên cạnh một dàn điện
thoại, trong đó có một cái đặc biệt nhất dễ nhận ra là cái dành riêng cho
“thầy“. Đường dây cho “thầy“ không phải là "Ưu Tiên Một" mà ưu
tiên “super“, có thể nói đối với Minh Cồ là “over super“.
Chúng tôi mỗi người một
chỗ ngồi nghỉ hoặc ngả lưng trên sofa chờ tin tức (phái đoàn bên kia tới để họp bàn). Rõ ràng lời “thầy“ vừa mới nói: ”Tổng thống cũng như quí ngài đây yên
chí, tôi đã cho người liên lạc được với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và họ
đã gặp riêng tôi nói chắc rằng đã lập xong phái đoàn đang trên đường đến
đây, vì bí mật nên không cho biết giờ tiếp đón. Quý ngài cứ yên tâm về nghỉ
và khi họ đến là tôi điện thoại ngay...”
Ra về, tôi thấy nét mặt
của Minh Cồ còn hy vọng nhiều, ông Mẫu thì thinh thinh ít nói. Lý Chánh Trung
đến giờ phút ấy vẫn hớn hở, riêng cá nhân tôi thấy tình hình ồn ào lộn xộn
tại nội thành Sàigòn đã đến lúc phải nổ tung và không thể tránh khỏi...
4 giờ 30 sáng 30.4.75, Minh Cồ sốt ruột
không thể chờ thêm được nữa phải nhắc điện thoại lên xin gặp “thầy” trong
khi tiếng đì đùng của loại súng AK nghe càng rõ mồn một. Minh Cồ càng quýnh
hơn:
-”Thưa thầy, tôi, tổng thống Dương Văn Minh,
muốn biết ý kiến thầy, sao chờ đến giờ này không thấy gì hết? Anh em chúng
tôi đang có mặt hết tại đây, tình hình hiện tại quá lộn xộn, xin thầy quyết
định thế nào chớ, tôi thấy hoàn toàn bí lối, có lẽ nguy khốn hơn, chớ không
thể nói gì với bên kia được...”
Tiếng Thích Trí Quang rè rè trong điện thoại:
-”Thưa tổng thống, cũng như tổng thống là
tôi vẫn chờ đến giờ này (không biết đây là lời nói thật của ổng
hay nói dối) và theo tôi nghĩ có lẽ với tình thế hiện tại, trong sứ mạng
của tôi, người đứng trung gian bắc nhịp cầu của thế cờ chánh trị, có thể
nói là chấm dứt. Với trọng trách là tổng thống, hơn nữa là một đại tướng,
tôi nghĩ công việc phải nhờ vào tài quân sự của đại tướng, chứ giải pháp
chánh trị của tôi coi như chấm dứt, và nếu từ giờ phút này nếu có chuyện gì
xảy đến thì mọi trách nhiệm đều do tổng thống, à quên đại tướng quyết định
với giải pháp quân sự, mà trong lãnh vực này đại tướng rất rành giỏi hơn
tôị Xin chào tổng thống...”
Minh Cồ chỉ trả lời gọn
một câu:”Thầy giết tôi rồi!” và cúp máỵ Lúc đó là 5 giờ kém 15 sáng
30.4.75 “...
(trích
trong bài "TÂM TÌNH TƯỚNG CÓ TRONG NHÀ TÙ HÀ TÂY" của nhà báo CS
Hồ Văn Quang ghi lại).
TRÍ QUANG DƯỚI CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN
Hiện nay Thích Trí Quang hãy còn sống ở Việt
Nam. Nhưng từ 1975 cho đến bây giờ, đã 23 năm qua, không ai nghe nói đến
một hoạt động nào, hay một lời tuyên bố nào của người tu sĩ này. Ngay cả
những vụ chống đối CSVN về việc thành lập tổ chức Phật Giáo Quốc Doanh của
các tăng sĩ chính thống, người dân VN trong và ngoài nước chẳng ai thấy tên
Trí Quang tham dự. Cụ thể hơn nữa, trong đơn “XIN CỨU XÉT NHIỀU VIỆC”, đề
ngày 25. 6. 92, của Hòa Thượng Huyền Quang gửi cho nhà cầm quyền CSVN, đã
được phổ biến rộng rãi khắp trong nước và hải ngoại và đã gây nên một làn
sóng dư luận chống đối CS mãnh liệt, ta cũng không thấy HT Huyền Quang nhắc
nhở gì đến Trí Quang. Vậy Trí Quang đã và hiện đang làm gì ở VN?
Dư luận về Trí Quang ở hải ngoại cũng rất vụn
vặt và mâu thuẫn. Người thì cho là Trí Quang đã lui về tu hành chân chính,
không tranh đấu nữa, đã tịnh khẩu... Có người còn suy đoán có lẽ Trí Quang
đã bị CS giam lỏng, quản chế...
Dĩ nhiên trong vụ này, tôi cũng như các bạn
đều không ai biết gì chính xác về thân phận của Trí Quang trong thời gian
sống dưới chế độ CS. Nhưng căn cứ trên một số tài liệu tiết lộ từ trong
nước, chúng ta có thể tìm hiểu được phần nào. Vậy xin cống hiến bạn đọc để
cùng nhau suy ngẫm.
Theo bài báo “CON ĐƯỜNG
KHÚC KHỈU” của Đỗ Trung Hiếu, một cán bộ cao cấp đặc trách Ban
Tôn Giáo Vận đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn, kể lại những thành tích của ông ta
trong thời gian còn hoạt động bí mật thì sau ngày 30. 4. 75, Trí Quang đã bị CSVN liệt vào thành phần
“CIA CHIẾN LƯỢC”.
Đỗ Trung Hiếu đã gia nhập đảng CSVN từ năm
1956, và là một cán bộ nằm vùng, hoạt động trong khối Phật Giáo ở miền Nam,
đặc trách theo dõi các cuộc đấu tranh của Phật Giáo từ năm 1963. Vì thế
Hiếu đã quen biết rất nhiều tăng sĩ thế lực thuộc cả hai phe Ấn Quang của
Thích Trí Quang và Việt Nam Quốc Tự của HT Thích Tâm Châu.
Đỗ Trung Hiếu kể, khi được lịnh vận động khối
Phật Giáo để thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (GHPGVN),
(tức tổ chức Phật Giáo
Quốc Doanh), ông ta đã trình bày
vai trò quan trọng không thể thiếu của Trí Quang với các thượng cấp chỉ huy
trực tiếp là Trần Bạch Đằng và Xuân Thủy. Lúc bấy giờ Xuân Thủy đang giữ
chức Bí Thư Trung Ương Đảng, kiêm trưởng ban Dân Vận Trung Ương, còn Trần
Bạch Đằng làm Phó Trưởng Ban.
Khi nghe Đỗ Trung Hiếu nói về vai trò cần
thiết của Trí Quang trong tổ chức GHPGVN, Trần Bạch Đằng đã gạt phắt đi, và
không đồng ý cho Trí Quang tham dự vào tổ chức này. Vì theo nhận xét của Trần Bạch Đằng thì Trí Quang thuộc loại “CIA
CHIẾN LƯỢC”, không thể nào dùng được.
Ít lâu sau Nguyễn Văn Linh thay thế Xuân Thủy
lên làm Trưởng Ban Dân Vận Trung Ương, cũng
hoàn toàn đồng ý với Trần Bạch Đằng, cho rằng Trí Quang là người không thể
xài được.
Kết quả, ngày 4. 11. 1981, đại hội thành lập
Giáo Hội Phật Giáo VN (quốc
doanh) gồm có sự tham gia của phe Ấn Quang, tổ chức
tại chùa Quán Sứ, Hà Nội, đã bầu ra một Hội Đồng Trị Sự như sau: chủ tịch
HT Thích Trí Thủ, phó chủ tịch HT Thích Trí Tịnh, còn HT Thích Đôn Hậu làm
phó Pháp Chủ kiêm Giám Luật của Hội Đồng Chứng Minh. Như vậy, bạn đọc đã thấy
rõ, trong suốt cuộc chiến Quốc - Cộng ở VN, dù cho Trí Quang đã lập nên
được rất nhiều công trạng lớn với CSVN, nhưng chỉ vì một chút nghi vấn
không biện minh được của cái đêm 22. 8. 63 oan nghiệt, cuộc đời của Trí
Quang đã bị các đồng chí của ông ta đem chôn vùi âm thầm vào trong bóng
tối.
Vậy cái đêm 22. 8. 63 là cái đêm gì?
Đêm 22. 8. 63 là đêm mà Công An, Cảnh Sát, và
Mật Vụ nhà Ngô đã ập vào các chùa Xá Lợi, Ấn Quang, Theraveda... để hốt hết
các tăng ni, duy chỉ sót có một mình... Trí Quang!
Về sau bí mật mới được
tiết lộ là: trong đêm ấy, bí thư Thích Nhật Thiện đã đem Trí Quang chạy trốn
vào cơ quan USAID, rồi chuyển qua tòa đại sứ Mỹ, và được đại sứ Cabot Lodge
che chở...
Chính vì thế sau ngày 30.4.75, CSBV đã bắt
giam ngay Thích Nhật Thiện để điều tra, vì CS nghi Thích Nhật Thiện đã làm
tay sai cho Mỹ.
Kể từ khi Thích Nhật Thiện bị bắt, Trí Quang
không khỏi lo sợ cho thân phận mình, chẳng khác nào con cá nằm trên thớt,
nên phải giả vờ suốt ngày ngồi Thiền, và tịnh khẩu...
Nếu bạn đã đọc đoạn “HT
Thích Tâm Châu nói về TT Trí Quang” ở trên rồi, hẳn bạn sẽ nhận ra
đây chỉ là một phản ứng kiểu con Đà Điểu, theo thói quen của Trí Quang mỗi
khi gặp cảnh nguy nan, sợ hãi mà thôi!...
|
No comments:
Post a Comment